Tuần san                                                                              

www.tinvui.org
bantreconggiao@yahoo.comTIN VUIFlowchart: Document: Số 
166
7/12/2008

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                             

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org hoặc www.tinvui.info để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

mục lục

 TOC \o "1-3" \h \z \u

Chúa Nhật II Mùa Vọng B.. PAGEREF _Toc216419573 \h 2

CON ĐƯỜNG CHÚA ĐẾN.. PAGEREF _Toc216419574 \h 2

Tân đại sứ Argentina cạnh Tòa Thánh trình quốc thư lên Đức Thánh Cha. PAGEREF _Toc216419576 \h 5

Đức Thánh Cha tiếp kiến Ủy ban Thần Học quốc tế. PAGEREF _Toc216419577 \h 5

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Chilê. PAGEREF _Toc216419578 \h 6

Tòa thánh ký Công ước về bom đạn nổ chùm.. PAGEREF _Toc216419579 \h 6

Tòa thánh minh định thái độ chống bản tuyên ngôn về đồng tính. PAGEREF _Toc216419580 \h 7

Biển Đức 16 chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Nga về việc Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Alexis II, qua đời PAGEREF _Toc216419581 \h 8

Kỷ Niệm 154 năm công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội PAGEREF _Toc216419582 \h 9

Lễ truyền thống của sinh viên Công giáo tổng giáo phận Hà Nội PAGEREF _Toc216419583 \h 11

GIÁO HỌ TRUYỀN GIÁO BỔNG ĐIỀN, GP THÁI BÌNH MỪNG LỄ QUAN THẦY PHANXICÔ VÀ ĐÓN CHA QUẢN NHIỆM... PAGEREF _Toc216419584 \h 13

Ngôi nhà thờ giáo xứ Sơn Thủy nơi miền núi Aluới sau 30 năm xây cất vẫn còn dang dở. PAGEREF _Toc216419585 \h 14

Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng thánh đường giáo xứ Phú Linh Giáo phận Vinh. PAGEREF _Toc216419586 \h 15

Giáo xứ Bản Quấn thuộc Lạng Sơn kỉ niệm 100 năm đón nhận Tin Mừng. PAGEREF _Toc216419587 \h 16

THANH HÓA – ĐẾN VỚI CÁC NẠN NHÂN LŨ LỤT PHÍA BẮC.. PAGEREF _Toc216419588 \h 17

Tu viện Mến Thánh Giá Kẻ Nghệ mừng lễ bổn mạng. PAGEREF _Toc216419589 \h 19

Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. PAGEREF _Toc216419590 \h 20

Tường thuật Thánh Lễ truyền chức Giám Mục Phụ Tá TGP Hà Nội PAGEREF _Toc216419593 \h 31

Đêm Văn Nghệ Diễn Nguyện mừng đức tân Giám mục phụ tá Hà Nội PAGEREF _Toc216419594 \h 34

KỶ NIỆM 350 NĂM HỘI THỪA SAI BA LÊ (1658-2008): HỘI THẢO “DẤU ẤN ĐỨC TIN” CỦA UỶ BAN VĂN HOÁ - HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM... PAGEREF _Toc216419595 \h 35

Hội Cao Niên phường Hố Nai tổ chức Lễ Tạ Ơn và Cầu nguyện. PAGEREF _Toc216419596 \h 36

NHÀ THỜ GIO LINH - PHAN THIẾT. PAGEREF _Toc216419597 \h 37

Tĩnh Tâm Linh mục Nha Trang năm 2009. PAGEREF _Toc216419598 \h 39

TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN BAN MÊ THUỘT. PAGEREF _Toc216419599 \h 40

Ngày Quốc Tế Khuyết Tật tại giáo xứ thánh Martinô Thị Nghè. PAGEREF _Toc216419600 \h 41

MỪNG LỄ THÁNH NICOLAS BARI BỔN MẠNG GIÁO XỨ CHÁNH TÒA ĐÀLẠT. PAGEREF _Toc216419601 \h 41

THÁNH LỄ MỪNG KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, BỔN MẠNG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO &KỶ NIỆM 17 NĂM GIÁM MỤC CỦA ĐỨC CHA PHÊRÔ NGUYỄN VĂN NHƠN.. PAGEREF _Toc216419602 \h 43

THƯ CỦA ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN LONG XUYÊN THÔNG BÁO VỀ VIỆC BỔ NHIỆM VÀ THUYÊN CHUYỂN CÁC LINH MỤC TRONG DỊP CUỐI NĂM 2008. PAGEREF _Toc216419603 \h 45

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO.. PAGEREF _Toc216419604 \h 47

Thư Mục vụ 2008 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa về Môi trường Giáo dục Gia Đình Công Giáo. PAGEREF _Toc216419605 \h 47

CON ĐƯỜNG ĐÓN TÌNH YÊU.. PAGEREF _Toc216419606 \h 53

Cuộc Trở Về Ngoạn Mục. PAGEREF _Toc216419607 \h 55

Để chuẩn bị cho nền giáo dục Công giáo. PAGEREF _Toc216419608 \h 58

Vượt qua giới hạn. PAGEREF _Toc216419609 \h 60

GIẤC MƠ HAY HIỆN THỰC?. PAGEREF _Toc216419610 \h 62

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH.. PAGEREF _Toc216419611 \h 63

RƠM LỬA.. PAGEREF _Toc216419612 \h 63

ĐỌC SÁCH.. PAGEREF _Toc216419613 \h 65

Đôi Điều Suy Nghĩ Nhân Chuyến Hành Hương Đất Thánh. PAGEREF _Toc216419614 \h 65

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật II Mùa Vọng B

 

PHÚC ÂM: Mc 1, 1-8

"Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khởi đầu Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: Đây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".

Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan.

Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Người rao giảng rằng: "Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần".

Đó là lời Chúa.

CON ĐƯỜNG CHÚA ĐẾN

Cứu độ là việc gặp gỡ giữa Chúa với ta.  Từ trời cao Chúa đến với ta thì dĩ nhiên ta cũng phải sẵn sàng để đón tiếp Người.  Trong Cựu Ước, ngôn sứ I-sai-a đã gióng lên tiếng hô, kêu gọi dân Chúa hãy chuẩn bị đón tiếp Chúa sau khi “thời làm nô lệ của Thành (Giê-ru-sa-lem) đã mãn, tội của Thành đã đền xong”.  Cũng vậy, trong Tân Ước ông Gio-an Tẩy Giả đã lập lại cùng một sứ điệp của ngôn sứ I-sai-a, mời gọi người ta dọn đường tâm hồn đón Chúa Ki-tô.  Còn thánh Phê-rô lại mở cánh cửa trời mới đất mới cho ta nhìn thấy tương lai vĩnh cửu để ta cố gắng trở nên tinh tuyền.  Đó là chủ đề Lời Chúa hôm nay muốn trình bày.

1.  Con đường Chúa đến với ta

Gọi là con đường cho cụ thể, chứ thực ra đó chính là tâm hồn ta.  Chúa đi trên con đường tâm hồn để đến với ta.  Hình ảnh cụ thể ấy được sử dụng để mô tả những trạng thái tâm hồn khác nhau, nhưng tựu chung vẫn phải là con đường Chúa đến với ta, vì ngoài ra Chúa không đến bằng bất cứ con đường nào khác.  Vậy ngôn sứ I-sai-a và ông Gio-an Tẩy Giả nói về con đường này với ai và trong hoàn cảnh nào?

Giê-ru-sa-lem bị thất thủ và cuộc lưu đày Ba-by-lon đã khiến dân Ít-ra-en phải sống những tháng năm tủi nhục, làm tôi đòi cho ngoại bang.  Giữa những khổ đau trăm điều, ngôn sứ I-sai-a đốt lên ngọn nến hy vọng, mở đầu sách An ủi cho dân Ít-ra-en, từ chương 40 đến 55.  Ngài loan báo một tin mừng cho Ít-ra-en, là Đức Chúa sẽ đến với họ, “tay nắm trọng chủ quyền” và “như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa” (Is 40:10-11).  Tội bất trung của Ít-ra-en đã phải đền bằng cuộc nô lệ phục dịch Ba-by-lon.  Dường như Thiên Chúa để mặc cho Ít-ra-en bị trao vào tay ngoại bang và Người chẳng đoái hoài.  Tuy nhiên đó chỉ là đường lối Thiên Chúa dùng để giúp Ít-ra-en cải tà quy chính và sẽ luôn trung thành thờ phượng Người.  Giờ thì “thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong” nên Thiên Chúa quyết định trở lại với Ít-ra-en.  Nhưng trước khi Người đến với Ít-ra-en, họ cần phải chuẩn bị đón tiếp.  Ngôn sứ I-sai-a đóng vai trò làm “tiếng hô trong sa mạc”.  Trong sa mạc thinh lặng, ngay đến tiếng thì thầm cũng còn nghe được, huống chi là tiếng hô lớn.  Sứ điệp của tiếng hô này chỉ vỏn vẹn ý tưởng:  hãy dọn đường tâm hồn cho Chúa đến.

Địa lý Ít-ra-en quả thực rất thích hợp để diễn tả những trạng thái trừu tượng của tâm hồn.  Ít-ra-en là đất đồi núi, sỏi đá khô cằn, họa hiếm đồng bằng và không có sông ngòi to lớn.  Sa mạc, đồng hoang, thung lũng, núi đồi, lồi lõm, gồ ghề là đặc điểm địa lý Ít-ra-en, nhưng cũng tượng trưng cho những trở ngại tâm hồn dân Ít-ra-en ngăn cản Chúa đến với họ.  Do đó, họ cần phải mở đường, phải loại trừ tất cả những trở ngại tâm hồn cho Chúa đến.  Chúa có thể bất chấp những trở ngại đó mà đến, nhưng việc Chúa đến là cuộc gặp gỡ yêu thương nên không thể là một áp đặt vô nghĩa.  Người đến với họ, nhưng chính họ cũng phải đến với Người.

Khi rao giảng sám hối trong hoang địa, ông Gio-an là hiện thân tiếng hô trong sách ngôn sứ I-sai-a.  Ông làm sứ giả cho Chúa Giê-su, đi trước Người, kêu gọi người ta chuẩn bị con đường tâm hồn cho Đấng Cứu độ đến với họ.  Kèm theo lời giảng, ông còn thực hành nghi thức làm phép rửa để giúp người ta biểu lộ quyết định sám hối, thay đổi cuộc sống cho thánh thiện để tâm hồn họ trở thành “con đường của Đức Chúa” và “lối thẳng để Người đi”.

Tiếng hô của ngôn sứ I-sai-a và ông Gio-an Tẩy giả chắc chắn là một thách đố cho ta.  Nó đòi ta phải nhìn lại chính cuộc đời mình để nhận định những trở ngại trên con đường tâm hồn ta.  Những hình ảnh tiêu cực hết sức thực tế như quanh co, gồ ghề, lồi lõm, lũng sâu, đồi cao… đều biểu hiện cho những trạng thái xấu xa của tâm hồn.  Trái lại, những hình ảnh tích cực như đầy đặn, bằng phẳng, thẳng tắp diễn tả những nét tích cực của con đường tâm hồn không trở ngại, sẵn sàng để Chúa đến với ta.  Sự tương phản giữa hai trạng thái tiêu cực và tích cực ấy nói lên việc ta phải làm, giống như muốn bỏ một tính xấu thì phải thay thế bằng một nhân đức.  Thí dụ:  núi đồi phải bạt xuống có nghĩa là muốn diệt trừ tính kiêu căng cần phải tập đức khiêm nhường.  Đó là công việc song song, diệt trừ nết xấu và tập tành nhân đức.  Vấn đề là ta có thực sự lắng nghe tiếng hô của những người muốn giúp ta sửa đổi và can đảm nhìn thẳng vào chính mình hay không.

2.  Ông Gio-an Tẩy giả, gương mẫu sám hối

Ta đã nghe ông Gio-an Tẩy giả hô lên trong sa mạc kêu gọi người ta sám hối.  Tuy nhiên ta có thể nhận thấy tấm gương sám hối của ông trong lối sống cũng như cách cư xử và thi hành sứ mệnh.  Sám hối tức là thay đổi sao cho tốt hơn.  Đời sống của ông thật giản dị, khó nghèo và thẳng thắn.  Ông có thể thừa hưởng tất cả gia tài giàu có của cha mẹ, nhưng ông lại từ bỏ nếp sống xa hoa và tất cả để chấp nhận đời sống giản dị của vị ẩn sĩ.  Ông có thể giữ lấy thanh thế cho chính mình, vì “mọi người khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông” (Mc 1:5), nhưng ông xác tín mình cần phải lu mờ đi để cho Chúa Giê-su nổi bật lên (Ga 3:30).  Ông còn khiêm nhượng đến nỗi cho rằng mình “không đáng cúi xuống cởi quai dép” cho Chúa Giê-su.  Lời giảng và phép rửa của ông chắc chắn là một nghi thức đánh động nhiều tâm hồn.  Nhưng ông không vì thế mà kênh kiệu, trái lại ông còn tôn vinh phép rửa của Chúa Giê-su.  “Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần” (Mc 1:8).  Nước là chất liệu bên ngoài, làm sao tẩy rửa được tâm hồn.  Cho nên nước không thể so sánh được với Thánh Thần, Đấng thay đổi cả bộ mặt trái đất và tâm hồn con người.  Ông Gio-an có nhiều môn đệ.  Nhưng khi gặp Chúa Giê-su đến xin nhận phép rửa của ông, ông đã giới thiệu Chúa với môn đệ mình và để họ đi theo Người (Ga 1:35-39).  Tóm lại, ông Gio-an đã thay đổi cuộc sống trước khi rao giảng sám hối cho người khác.

3.  Chúa đến mở ra cho ta trời mới đất mới

Nếu ta nghe theo lời giảng của ngôn sứ I-sai-a và ông Gio-an Tẩy giả, chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để Chúa đến với ta, chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp và mới lạ nảy sinh, nhưng đặc biệt nhất đó là ta sẽ nhận ra trời mới đất mới như Chúa đã hứa.

Tin chắc như vậy, thánh Phê-rô Tông Đồ mới nhắn nhủ ta hãy chuẩn bị chu đáo cho “ngày của Chúa”.  Vậy điều gì sẽ xảy ra trong “ngày của Chúa”?  Thánh Phê-rô dùng lối diễn tả khải huyền để nói về ngày ấy:  “Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2 Pr 3:10).  Thực sự khó mà hiểu được cách diễn tả của thánh Phê-rô về “ngày của Chúa”.  Nhưng chắc chắn một điều, là nếu “muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa”.  Như vậy, thánh Phê-rô muốn nói rằng:  Muôn vật phải tiêu tan, nhưng ta cần phải tồn tại, và đó là điều Chúa muốn.  “Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong” (2 Pr 3:9).  Mà nếu muốn được tồn tại vĩnh viễn, ta phải là những người thánh thiện đạo đức.  Được sống muôn đời, đó chính là “trời mới đất mới” của ta đó.

Thay vì nói về sám hối như sứ điệp của tiếng hô trong sa mạc, thánh Phê-rô lại nói đến hiệu quả của sám hối:  “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2 Pr 3:14).  Đúng thế, ta là những người tội lỗi, đáng trách trước mặt Chúa.  Nhưng nếu ta có thực thi sám hối, thì mới có thể biến đổi con người từ trạng thái tội lỗi đến trạng thái tinh tuyền thánh thiện.  Theo cái nhìn của thánh Phêrô, khi ta thực thi sám hối có nghĩa là ta xa dần khỏi “trời cũ đất cũ” để tiến gần đến “trời mới đất mới” vậy.

3. Sống Lời Chúa

Sám hối không chỉ là chủ đề của mùa Chay, mà cũng là chủ đề của mùa Vọng nữa, bởi vì cả hai mùa đều đưa ta tới Chúa Ki-tô, Đấng đã giáng sinh, chết trên thập giá và sống lại vinh hiển để cứu độ ta.  Cùng một sứ điệp sám hối đã được ngôn sứ I-sai-a, Gio-an Tẩy giả và Tông Đồ Phê-rô trình bày trong những bối cảnh khác nhau, nhưng đều quy về một mục đích là chuẩn bị đón Chúa đến với ta.  Ta dọn đường tâm hồn cho Chúa đến và khi Người ở với ta, Người cũng chính là Đường dẫn ta về trời mới đất mới là nhà Cha trên trời.

 Tại Hoa-kỳ, công tác làm đường và sửa đường là việc thường xuyên, nhờ đó bốn mùa ta đều có thể đi lại dễ dàng.  Còn con đường tâm hồn để tôi đón Chúa liệu có được sửa sang tu bổ hằng ngày không?  Vào cuối ngày trước khi nghỉ ngơi, tôi có nhìn lại tâm hồn mình để nhận ra những khuyết điểm cần sửa đổi không?  Và sửa đổi làm sao?

Lạy Thiên Chúa toàn năng ái tuất, xin đừng để chúng con mải mê thế sự, chẳng còn hăm hở đi đón mừng Con Chúa, nhưng xin dạy chúng con biết ham thích những sự trên trời, hầu được cùng Người vui hưởng phúc trường sinh.  Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II mùa Vọng).

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

 

Tân đại sứ Argentina cạnh Tòa Thánh trình quốc thư lên Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 5-12-2008 dành cho tân đại sứ Argentina cạnh Tòa Thánh, Ông Juan Pablo Cafiero, đến trình quốc thư, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi củng cố đối thoại và cộng tác giữa chính quyền Argentina và hàng GM nước này trong các lãnh vực thuộc công ích của toàn dân.

Ông Cafiero đã từng làm bộ trưởng phát triển xã hội và Bộ an ninh của tỉnh Buenos Aires, rồi Bộ phát triển nhân sự của tỉnh này.

Trong diễn văn chào mừng Ông tân đại sứ, ĐTC ca ngợi truyền thống Kitô sâu rộng của Argentina và kêu gọi bảo vệ gia sản tinh thần quí giá này. Ngài cũng nói đến sứ mạng tinh thần của Giáo Hội, với những hoạt động đặc biệt trong các lãnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, lao động, nhất là quan tâm đến những người kém may mắn. ĐTC nói: ”Với những hoạt động đó, cộng đồng Công Giáo chỉ theo đuổi mục tiêu làm chứng tá bác ái và chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng cho lương tâmm, để con người đạt được cuộc sống sung mãn, được biểu lộ qua lối cư xử của mỗi người và trong cuộc sống chung với tinh thần trách nhiệm và hòa hợp, cảm thông và tha thứ cho nhau.. Giáo Hội không chủ trương trở thành một thực thể chính trị, nhưng, trong sự độc lập về uy tín tinh thần của mình, Giáo Hội mong ước cộng tác với các vị lãnh đạo xã hội trần thế với ý hướng cao thượng là đạt tới một nền văn minh công lý, hòa bình, hòa giải, liên đới..

ĐTC cũng cổ võ xã hội Argentina bênh vực gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, đường hướng hoạt động luân lý dựa trên các nguyên lý được ghi khắc trong tâm hồn con người, tinh thần hy sinh và tình liên đới quảng đại, bảo vệ sự sống con người từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên, loại trừ nghèo đói, vun trồng sự lương thiện, chiến đấu chống tham nbhũng, đề ra những biện pháp giúp đỡ các cha mẹ trong việc thi hành quyền bất khả nhượng của họ là giáo dục con cái theo các xác tín luân lý và tôn giáo của mình..

Mục lục

Đức Thánh Cha tiếp kiến Ủy ban Thần Học quốc tế

VATICAN. Sáng 5-12-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến Ủy ban thần học quốc tế, và ngài kêu gọi cấp thiết giúp xã hội ý thức về luật luân lý tự nhiên.

Ủy ban thần học quốc tế vừa kết thúc khóa họp thường niên hôm 5-12-2008 sau 5 ngày nhóm họp tại Nội thành Vatican, dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Luis Ladaria, dòng Tên, Tổng thư ký của Ủy ban và cũng là Tổng thư ký Bộ giáo lý đức tin.

25 nhà thần học quốc tế đã đặc biệt cứu xét và thông qua dự thảo văn kiện về luật luân lý tự nhiên với tựa đề ”Tìm kiếm một nền luân lý đạo đức phổ quát. Cái nhìn mới về luật luân lý tự nhiên”.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nói: ”Trong bối cảnh ngày nay, tôi tái khẳng định sự cần thiết và khẩn cấp phải kiến tạo trong nền văn hóa và xã hội dân sự, chính trị, những điều kiện cần thiết để ý thức hoàn toàn về giá trị không thể từ khước được của luật luân lý tự nhiên... Cũng nhờ sự nghiên cứu của anh em về vấn đề này, người ta thấy rõ luật luân lý tự nhiên là một bảo đảm thực sự cho mỗi người để sống tự do, được tôn trọng trong phẩm giá của mình, và cảm thấy được bảo vệ chống lại mọi toan tính lèo lái ý thức hệ, cũng như chống lại sự lạm quyền dựa trên luật của kẻ mạnh hơn”.

Trong những ngày họp, Ủy ban thần học quốc tế cũng thảo luận sâu rộng về ”Ý nghĩa và phương pháp thần học”. Đề cập đến vấn đề này, ĐTC nhắc nhở các nhà thần học trong Giáo Hội về đặc tính thiết yếu của thần học là đặt vấn đề liên quan đến đức tin, chứ không phải chỉ tự hỏi về hiệu năng của đức tin về phương diện thực hành và xã hội.

ĐTC khẳng định rằng: ”Về phương diện khách quan, chân lý là mạc khải của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô, chân lý ấy đòi hỏi câu trả lời là sự vâng phục đức tin trong niềm hiệp thông với Giáo Hội và Huấn Quyền của Hội Thánh... Phương pháp trong thần học không thể chỉ dựa trên những tiêu chuẩn và qui luật chung với các khoa học khác, nhưng trước tiên phải tuân giữ các nguyên tắc và các qui luật xuất phát từ Mạc Khải và từ đức tin, trong chiều kích bản thân và chiều kích Giáo Hội.”

”Về phương diện chủ quan, nghĩa là về phương diện người làm thần học, nhân đức căn bản của nhà thần học là tìm kiếm sự vâng phục đức tin, làm cho thần học gia trở thành người cộng tác với chân lý. Như thế, nhà thần học sẽ không nói về mình; và sau khi được thanh tẩy nội tâm,. nhà thần học sẽ làm cho chính chân lý nói lên qua mình. Đồng thời chân lý có thể được mang đến cho thế giới.

ĐTC cũng ghi nhận rằng ”Sự vâng phục đức tin không có nghĩa là từ bỏ việc nghiên cứu và suy tư. Sự băn khoăn của tư tưởng không bao giờ có thể hoàn toàn yên hàn trong cuộc sống tín hữu, vì các tín hữu là những người đang ở trên đường tìm kiếm và đào sâu chân lý. Tuy nhiên chính sự băn khoăn ấy tháp tùng và khích lệ tín hữu trong cuộc lữ hành của tư tưởng hướng về Thiên Chúa và nhờ đó trở nên phong phú”

Mục lục

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Chilê

VATICAN. Sáng 4-12-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến 31 GM Chile và khích lệ các vị đào sâu đời sống nội tâm và cổ võ các tín hữu trở thành chứng nhân đích thực của Tin Mừng. 31 GM thuộc 26 giáo phận tại Chile vừa kết thúc tuần lễ hành hương Roma, viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến chung, ĐTC nói: ”Tôi mời gọi anh em hãy vun trồng đời sống nội tâm nồng nhiệt và đức tin sâu xa, vì trong cuộc sống thân mật với Thầy Chí Thánh qua kinh nguyện, những sáng kiến lớn về mục vụ được chín mùi để đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng của Dân Chúa trung thành, và khi khởi hành từ Thiên Chúa, chúng ta có thể đi tới các anh chị em chúng ta với một lời đầy hy vọng”.

ĐTC ghi nhận rằng các GM Chile đã đề ra những hướng đi thích hợp cho 4 năm tới đây, giúp các tín hữu vui sống theo chân Chúa và ý thức hơn về nghĩa vụ truyền giáo. Ngài nói: ”Công trình truyền giáo bao la này cũng đòi hỏi tất cả mọi người một nỗ lực đặc biệt để thanh tẩy và thực thi bác ái. Anh em biết rõ rằng con người ngày nay đang rất cần những gương sống thực sự theo Tin Mừng và phù hợp với niềm tin. Vìt hế, sự thánh thiện của mọi thành phần Giáo Hội, nhất là của các vị mục tử, là một trong những hồng ân quí giá nhất mà anh em có thể mang lại cho các anh chị em của mình”.

ĐTC nhắn nhủ các GM Chile hãy gần gũi các LM của mình, tăng cường phẩm chất việc đào tạo các chủng sinh, đẩy mạnh việc mục vụ giới trẻ, huấn luyện cho giáo dân về đức tin, khuyến khích họ chăm chỉ tiếp xúc với Lời Chúa, để họ dấn thân trong các lãnh vực như thế giới văn hóa, khoa học và chính trị, thăng tiến gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, kiến tạo những điều kiện làm việc xứng đáng hơn và giúp đỡ những người kém may mắn nhất.

Chile rộng 756.000 cây số vuông, gấp đôi Việt Nam, nhưng dân số chỉ có 16,5 triệu người trong đó 74% là tín hữu Công Giáo, 15% theo Tin Lành.  

Mục lục

 

Tòa thánh ký Công ước về bom đạn nổ chùm

Vatican (VIS) – Đức tổng giám mục Dominique Mamberti, Bộ trưởng của Tòa thánh phụ trách Liên lạc với các Quốc gia, hôm qua đã tham dự buổi lễ cử hành tại Oslo (Na uy) để ký kết Công ước cấm sử dụng, sản xuất, trao chuyển và tồn trữ bom đạn nổ chùm. Văn bản của Công ước này đã được chấp thuận tại Dublin (Ireland, Ái nhĩ lan) hôm 30 tháng 5 vừa qua.

Trong bài diễn từ, Đức tổng giám mục Dominique Mamberti nói rằng “nhằm mục đích gửi đi một tín hiệu chính trị mạnh mẽ, Tòa thánh phê chuẩn Công ước này cùng ngày Công ước được ký kết. Trước hết, chúng tôi muốn bày tỏ thái độ gần gũi nhân đạo của Tòa thánh và các tổ chức của Tòa thánh đối với các nạn nhân. Chúng tôi cũng muốn loan đi lời kêu gọi các Quốc gia – đặc biệt là những nước sản xuất, xuất cảng và những ai có thể tiêu thụ bom đạn nổ chùm – hợp tác với những nước đang ký kết Công ước này, nhằm để bản đảm cho các nạn nhân, và tất cả những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề do các loại võ khí này, rằng thông điệp của họ đã được lắng nghe, thông cảm.

“Nền an ninh khả tín không những chỉ có thể thực hiện được, nhưng còn thực ra hữu hiệu hơn khi được xây dựng trên sự cộng tác, trên lòng tin và trên một trật tự quốc tế chính đáng, trong khi đó, trật tự dựa trên sự quân bình của quyền lực thì mỏng manh, bất ổn và là nguồn gây ra xung đột.”

Vị trưởng phái đoàn của Tòa thánh đến tham dự nghi lễ tại Oslo sau đó nói tiếp rằng “qua những sự đóng góp của mỗi người, ngôi nhà hòa bình nay vững chắc hơn, tuy vậy sự kiên trì và nhẫn nại là những điều tối cần để củng cố nó.”

Bản tuyên bố bằng Anh ngữ kèm theo diễn từ của đức tổng giám mục Mamberti cho biết “khi phê chuẩn Công ước…Tòa thánh muốn khuyến khích toàn thể cộng đồng quốc tế quyết tâm đề cao việc giải giới hữu hiệu, các cuộc thương thảo nhằm kiểm soát võ khí, và củng cố luật nhân đạo quốc tế bắng cách khẳng định giá trị nổi bật và cố hữu của phẩm giá con người, đặt con người làm trọng tâm, và những quan tâm cơ bản về nhân tính, tất cả đều là các yếu tố tạo nên căn bản của luật nhân đạo quốc tế.”

Văn bản nói thêm: “Tòa thánh coi Công ước về võ khí nổ chùm như là một bước tiến quan trọng trong việc che chở cho người dân thường, trong và sau các cuộc xung đột, khỏi bị ảnh hưởng bừa bãi của loại võ khí vô nhân đạo này.”

Văn bản kết luận: “Tòa thánh coi việc thi hành Công ước này như là một thách đố về luật pháp và nhân đạo trong tương lai gần. Việc thực thi có hiệu quả Công ước này phải đặt căn bản trên sự hợp tác xây dựng của các thành phần trong chính quyền cũng như không thuộc chính quyền, và phải tăng cường mối liên hệ giữa việc giải giới với sự phát triển. Điều này có thể thực hiện được bằng cách chuyển các nguồn nhân lực và vật lực về hướng phát triển, công bình và hòa bình, đó là những phương tiện hữu hiệu nhất để thúc đẩy một nền an ninh quốc tế và một trật tự hòa bình quốc tế.”

Mục lục

 

Tòa thánh minh định thái độ chống bản tuyên ngôn về đồng tính

Rome (CNA) – Một bản dự thảo tuyên ngôn của Liên hiệp Châu Âu nhằm kết án “sự kỳ thị dựa trên khuynh hướng tính dục và giới tính” đã bị đức tổng giám mục Celestino Migliore chỉ trích. Ngài hiện giữ chức vụ quan sát viên thường trực của Tòa thánh cạnh Liên hiệp quốc. Phát ngôn viên của Tòa thánh là linh mục Federico Lombardi cũng đồng quan điểm với ngài, nói rằng bản tuyên ngôn đó có thể dẫn đến việc kỳ thị người theo Kitô giáo.

Bản dự thảo tuyên ngôn này do nước Pháp khởi xướng. Pháp đang luân phiên giữ chức vụ chủ tịch Liên hiệp Châu Âu. Theo tường trình của báo Times Online thì tất cả 12 nước trong tổ chức Liên hiệp Châu Âu đã ký vào văn bản này.

Bản tuyên ngôn được dự trù chuyển đạt tới phiên họp khoáng đại của Liên hiệp quốc vào hôm 10 tháng 12 sắp tới, ngày kỷ niệm 60 năm bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc.

Bản tuyên ngôn kêu gọi các chính phủ “bãi bỏ không trừng phạt hành vi đồng tính”, rõ rệt là đề cập đến các luật lệ chống giao hợp đồng tính.

Giải thích cho biết Giáo lý của Giáo hội Công giáo cấm “những kỳ thị bất công”, Đức tổng giám mục Migliore lý luận rằng việc cấm sự kỳ thị bằng một bản tuyên ngôn của Liên hiệp quốc sẽ tạo áp lực lên những quốc gia không công nhận hôn nhân đồng tính phải thay đổi luật lệ của họ.

Dự luật, theo quan điểm của ngài, sẽ “tạo thêm những loại người mới được bảo vệ cho khỏi bị kỳ thị” và có thể dẫn đến cảnh đảo ngược sự kỳ thị chĩa vào những người tin tưởng ở hôn nhân truyền thống.

Đức tổng giám mục nói: “Nếu được thông qua, sẽ tạo ra những sự kỳ thị mới và không khoan nhượng. Chẳng hạn, các quốc gia không công nhận những cuộc phối hợp đồng tính như là ‘hôn nhân’ sẽ bị công kích và bị đặt làm mục tiêu để áp lực.”

Giao hợp đồng tính hiện nay bị luật pháp của hơn 85 quốc gia trừng phạt, và là một trọng tội tại những nước như Afghanistan, Iran, Saudi Arabia, Sudan và Yemen

Những người cổ võ quyền đồng tính ở Ý kịch liệt chỉ trích ý kiến của đức tổng giám mục, gán cho những nhận xét đó là “dị hợm” và “lỗi thời”.

Lm Frederico Lombardi, giám đốc Đài Phát thanh Vatican, bênh vực nhận xét của đức tổng giám mục, nói rằng “không ai muốn kết án tử hình hay tống ngục hoặc phạt vạ người đồng tính cả.”

“Chẳng trách gì mà chỉ không quá 50 nước trong Liên hiệp quốc ủng hộ đề nghị này, trong khi có tới hơn 150 quốc gia không ủng hộ. Tòa thánh không phải là kẻ đơn độc trong vấn đề này”

Cũng theo Đài phát thanh Vatican thì Lm Lombardi cũng nhắc lại những mối quan ngại cho rằng bản tuyên ngôn được đề nghị đó có thể được sử dụng để chống lại những ai duy trì quan điểm coi định nghĩa đích thực của hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ.

Mục lục

 

Biển Đức 16 chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Nga về việc Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Alexis II, qua đời

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Nga về việc Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Alexis II, qua đời hôm 5-12-2008 vì đau tim, hưởng thọ 79 tuổi.

Trong điện văn gửi Thánh Hội đồng Chính Thống Nga, ĐTC viết:

”Tôi xúc động hay tin buồn Đức Alexis II, Thượng Phụ Mascơva và toàn nước Nga qua đời. Tôi thân ái gửi đến Thánh Hội đồng và toàn thể Giáo Hội Chính Thống Nga những lời chia buồn chân thành nhất, và bày tỏ sự gần gũi tinh thần của tôi trong giờ phút rất đau buồn này. Tôi dâng lên Chúa những lời khẩn nguyện xin Chúa đón nhận vào Nước an vui đời đời Người Tôi Tớ không biết mệt mỏi của Chúa và ban ơn an ủi nâng đỡ cho tất cả những người đang khóc thương sự ra đi của Đức Thượng Phụ.

Nhớ đến sự dấn thân chung trên đon đường cảm thông và cộng tác giữa các tín hữu Chính Thống và Công Giáo, tôi muốn nhắc lại những nỗ lực của Đức Cố Thượng Phụ trong việc hồi sinh Giáo Hội Chính Thống, sau thời kỳ bị đàn áp tàn bạo về ý thức hệ, tạo nên cuộc tử đạo của bao nhiêu chứng nhân đức tin Kitô. Tôi cũng nhớ đến cuộc chiến đấu quyết liệt của Đức Cố Thượng Phụ trong việc bênh vực các giá trị nhân bản và Tin Mừng, đặc biệt tại Âu Châu. Tôi cầu mong sự dấn thân của Đức Cố Thượng Phụ mang lại những hoa trái hòa bình và sự tiến bộ đích thực về nhân bản, xã hội và tinh thần.

Trong giờ phút chia tay đau thương này, giữa lúc thi hài Đức Thượng Phụ được đưa vào lòng đất trong khi chờ đợi ngày sống lại, ước gì ký ức về vị Tôi Tớ này của Tin Mừng Chúa Kitô là một nâng đỡ cho những người đang đau khổ và là khích lệ cho những ngừơi sẽ đón nhận gia sản của Đức Cố Thượng Phụ trong việc hướng dẫn Giáo Hội Chính Thống Nga đáng kính”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Tarcisio Bertone cũng gửi điện chia buồn với Thánh Hội đồng của Giáo Hội Chính Thống Nga.

Đức Thượng Phụ Alexis II sinh tại Tallin thủ đô cộng hòa Estoni năm 1929 trong một gia đình quí tộc gốc Đức và tục danh là Alexei Michailovitch Ridiger. Ngài được chọn làm GM tại Tallin năm 1961, và đặc trách về hiệp nhất các tín hữu Kitô và quan hệ với các Giáo Hội trong 16 năm trời, từ 1963 đến 1979. Tháng 6 năm 1990, ĐGM Ridiger được bầu làm Thượng Phụ thứ 15 của Giáo Hội Chính Thống Nga, thủ lãnh của lối 90 triệu tín hữu Chính Thống tại Nga, một Giáo Hội lớn nhất trong số 16 Giáo Hội Chính Thống trên thế giới.

Trong 18 năm qua, Đức Thượng Phụ Alexis đã nỗ lực hồi sinh Giáo Hội Chính Thống. Từ lâu ngài đã bị bệnh tim. Thánh Hội đồng sẽ bầu bị nhiếp chính trong khi chờ đợi triệu tập Công đồng của Giáo Hội trong vòng 6 tháng để bầu vị Thượng Phụ mới.

Theo chế độ công nghị của các Giáo Hội Chính Thống, vị Thượng Phụ chỉ là người đứng đầu trong số những người ngang hàng nhau trong Thánh Hội đồng của Giáo Hội, là cơ quan có thực quyền điều khiển, trong đó Đức Thượng Phụ cũng chỉ có 1 phiếu như các thành viên khác.

Mục lục

 

Kỷ Niệm 154 năm công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội

Trong Tông sắc Ineffabilis Deus ngày 8-12-1854, ĐTC Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhân giáp 150 năm ban hành Tông sắc (1854-2009) thiết tưởng cũng nên tìm hiểu qua về Tín điều quan trọng này.

Tin Mừng theo Thánh Luca trình thuật việc sứ thần Gabriel vào nhà Trinh nữ và nói: Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa Vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại người sẽ vô cùng tận. Bà Maria thưa với sứ thần: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng. Sứ thần đáp: Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa (Lc 1 28-35).

Lược sử hình thành Tín điều: Vào thế kỷ XII, đan sĩ Eadmer người Anh rao giảng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Thế kỷ XIV, Duns Scot hình thành học thuyết Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, dựa trên các bài giảng của các Cha Dòng Phanxicô. Trong suốt mười năm (1320-1330) tại Parme, Reggio Emilia và Crémone (Ý), các cha dòng Phanxicô tổ chức các lễ hội kính trọng thể Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong dân gian truyền tụng việc bầu cử ban nhiều ơn thiêng của Đức Mẹ. Bernard de Clairvaux, Peter Lombard, Thánh Bonaventure và Thánh Thomas d'Aquin đều đưa ra học thuyết Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Theo Thánh Bernard de Clairvaux, hồn xác Đức Mẹ thánh thiện trước khi được thiên thần truyền tin. ĐTC Sixte IV (1414-1484) từng là Tổng quyền Dòng Phanxicô đã ấn định ngày 8-12 hàng năm kính Đức Bà thụ thai.

Vì vậy thành phố Lyon (Pháp) tổ chức vào ngày 8-12 lễ hội ‘‘Ánh sáng Đức tin’’ (Fêtes des Lumières). Khoảng thế kỷ VIII, người Roma mừng lễ bà Thánh Anna mang thai Đức Mẹ và ngày 8-9 là sinh nhật Đức Mẹ. Từ thế kỷ XIV, các nhà thần học chủ trương Đức Mẹ không mắc tội tỗ tông. Công đồng Trente đã xác nhận Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Từ thế kỷ 17, nhiều họa phẩm Đức Trinh Nữ hiện trên mặt trăng, bận áo choàng tung bay, có nhiều thiên thần nhỏ đứng chầu, chân giẫm đầu con rắn.

- 24 năm trước tông sắc Ineffabilis Deus: Ngày 27-11-1830, nữ tu Catherine Labouré (dòng Nữ tử Bác ái) thuật lại rằng trong giờ nguyện gẫm tối, Đức Trinh Nữ hiện ra, đứng trên quả địa cầu, giẫm trên con rắn, đeo trên tay 15 chiếc nhẫn tỏa ánh sáng chiếu soi địa cầu. Chung quanh là hàng chữ: Ô Marie, conçue sans péché, priez pour nous qui avons recours à vous: Lạy Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cầu cho chúng con kêu cầu cùng Mẹ. Đức Mẹ còn phán rằng: Đây là ơn phúc Ta rộng ban cho những ai đến cầu xin Ta. Đức Mẹ cắt nghĩa những chiếc nhẫn không chiếu sáng tượng hình những ơn không kêu cầu. Phía sau ảnh tượng là chữ M: Maria đan trên cây Thánh Giá. Phía dưới có hai hình trái tim: Thánh Tâm Chúa Giêsu đội mạo gai và Trái Tim Đức Mẹ có mũi gươm đâm ngang.

- 12 vì sao của Tượng ảnh Đức Mẹ làm phép lạ sau này trở thành biểu tượng của Liên hiệp Âu châu. Ngày 18-8-1950, Hội đồng Âu châu lập ủy ban tổ chức trưng cầu ý kiến về một huy hiệu tượng trưng các giá trị siêu nhiên và tinh thần vốn là di sản chung của các nước thành viên. Huy hiệu này phải vừa đơn giản, lại vừa dễ nhận ra, hài hòa, thẩm mỹ và quân bình. Arsène Heitz vẽ 12 ngôi sao hình tròn trên nền xanh dương. Trong phiên họp khoáng đại ngày 8-12-1955 (nhằm lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội), Nghị viện Âu châu chấp thuận biểu tượng này. Cờ hiệu màu xanh 12 ngôi sao chính thức tung bay tại Paris ngày 13-12-1955.

- 4 năm trước ngày công bố Tín điều: Năm 1846, Công nghị IV họp tại Baltimore đã quyết định tôn vinh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Bổn mạng của nước Mỹ. Công nghị này do sáng kiến của Đức Cha Pierre-Jean-Mathias Loras (1792-1858), sinh quán ở Lyon (Pháp). Ngài có trong số những nhà truyền giáo có công lập Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ.

- 4 năm sau ngày công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời: Từ 11-2 đến 16-7-1858. Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, truyền cho Bernadette Soubirous đọc kinh lần chuỗi cầu cho kẻ có tội. Ngày 2-3 Đức Mẹ bảo Bernadette hãy đến xin các linh mục xây một thánh đường ở linh địa này. Vào ngày lễ Truyền tin (25-3-1858), Đức Mẹ phán bằng thổ ngữ miền Gascogne: Que soy era immaculada Councepciou: Ta là (Đấng) Vô Nhiễm Nguyên Tội. ‘‘Thụ thai’’ (Conception) không phải là tên người, đối với Bernadette Soubirous là một từ ngữ chuyên môn hoàn toàn xa lạ. Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, khởi công năm 1866, đã được khánh thành ngày 15-8-1871.

Lễ Truyền tin (25-3) mừng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tin Mừng theo Thánh Luca chép lại Bài ca Ngợi khen (Magnificat) (Lc 1 46-55), xin chuyển thể lục bát như sau:

Magnificat

Hồn tôi réo rắt tung hô,

Trí tôi vời vợi cơ đồ rủ thương.

Phận tôi thấp kém trăm đường,

Muôn đời cất tiếng xiển dương cuộc trần.

Chúa tôi giáng phúc ban ân,

Danh Ngài thánh thiện từ nhân hải hà.

Ngài hằng che chở những ai,

Thành tâm kính sợ, miệt mài sót thương.

Chúa tôi sức mạnh oai phong,

Biểu dương tiêu diệt những phường tự kiêu.

Tòa cao sụp đổ tiêu điều,

Những ai khiêm hạ Thiên triều đỡ nâng.

Giầu sang rồi cũng thanh bần,

Những ai nghèo khó Ngài ban phúc đầy.

Lời Ngài phán hứa xưa nay,

Cháu con tổ phụ ơn dầy tháng năm.

Paris, tháng 12-2008

Lê Đình Thông

Mục lục

 

 

Lễ truyền thống của sinh viên Công giáo tổng giáo phận Hà Nội

HÀ NỘI - Thánh lễ truyền thống của sinh viên Công giáo tổng giáo phận Hà Nội diễn ra trong hai ngày 29 và 30 tháng 11. Theo dự định, ngày lễ được diễn ra sớm hơn (vào ngày 8 và 9 tháng 11) nhưng do điều kiện thời tiết ở các tỉnh miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội vừa trải qua trận “đại hồng thủy” làm cho nhiều hoạt động bị ngừng trệ trong đó có thánh lễ truyền thống của sinh viên tổng giáo phận phải lùi lại tới cuối tháng.

Địa điểm tổ chức thánh lễ

Thánh lễ được tổ chức tại đền Thánh Phêrô Lê Tùy, họ Bằng Sở - xứ Sở Hạ - Giáo phận Hà Nội. Địa chỉ hành chính: thôn Bằng Sở - xã Ninh Sở - Thường Tín – Hà Tây. Đền Thánh cách Hà Nội (tính từ bến xe Giáp Bát) khoảng hơn 10 km về phía Đông Nam.

Đây là họ giáo có số lượng Giáo dân rất đông, với 1309 nhân khẩu, chiếm 90.2% dân số cả thôn. Giáo dân nơi đây luôn nhiệt tình, thân thiện, đúng như lời truyền tụng trong câu ca xưa:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch vẫn người Tràng An

Vì thế, khi các bạn sinh viên của tổng Giáo phận Hà Nội về đây mừng lễ đã được giáo dân tiếp đón nồng hậu, quan tâm chu đáo mọi mặt từ thể chất tới tinh thần. Trong lời cám ơn cuối lễ, Cha tổng phụ trách sinh viên tổng giáo phận (Cha Lê Trọng Cung) đã nhấn mạnh “xin cám ơn sâu sắc tới giáo dân họ Bằng Sở trong những năm qua, đặc biệt trong hai ngày qua với những ánh mắt trìu mến, những bát cơm ngon, canh ngọt, những chiếc chăn ấm để các bạn sinh viên có được bữa cơm ngon, chỗ ngủ ấm áp…”

Những hoạt động chính trong hai ngày mừng lễ

 

Chỉ với hai ngày mừng lễ nhưng các bạn sinh viên tổng giáo phận Hà Nội đã thực hiện nhiều chương trình và tổ chức rất thành công.

Cắm trại và tổ chức hội chợ

Đây là hoạt động rất lý thú và bổ ích, nó giúp các các bạn sinh viên thể hiện khả năng trang trí trại và giới thiệu những sản phẩm đặc trưng của quê mình.

Những đặc sản ở khắp vùng miền đã được các bạn đưa ra trưng bày và giới thiệu, nào là bánh cáy Thái Bình, nem chua Thanh Hóa, bánh mì Lạng Sơn, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Phát Diệm… Với việc tổ chức hội chợ các bạn sinh viên không chỉ quảng bá được sản phẩm của quê hương mình với bạn bè khắp nơi mà nó còn giúp các bạn sinh viên tăng thêm khả năng giao tiếp, giao lưu với các bạn sinh viên khác. Đồng thời nó còn giúp “tăng thêm phần thu nhập” cho các nhóm nếu bán được hàng.

Sau khi các trại đã được hoàn thiện, ban giám khảo đã xem xét và công bố các trại được giải cao như sau: Giải nhất thuộc về trại của nhóm sinh viên Hưng Hóa, giải nhì thuộc nhóm Vinh, nhóm Phát Diệm thứ 3, nhóm Thạch Bích thứ 4, nông nghiệp thứ 5…

Cầu nguyện Taize và biểu diễn văn nghệ

Giờ cầu nguyện linh thiêng kéo dài 1 giờ đồng hồ đã đưa các bạn sinh viên trở về với lịch sử giáo hội nói chung cũng như giáo hội Việt Nam nói riêng. Những hình ảnh đau thương mà các thánh tử đạo phải gánh chịu được đội văn nghệ diễn rất xuất sắc, làm cho nhiều khán giả xúc động, rơi lệ. Buổi cầu nguyện hôm nay hướng tới chủ đề “công lý và hòa bình”, đặc biệt là cầu nguyện cho nền công lý và hòa bình mau hiển trị trên quê hương Việt Nam. Vì “Việt Nam là một đất nước nghèo với 74% dân số sống ở nông thôn và 45% dân số sống dưới mức nghèo khổ… Sự xung đột đang diễn ra gay gắt giữa nhiều tầng lớp trong xã hội: người giàu với người nghèo, người ở thành thị với người ở nông thôn, người có quyền lực với thường dân. Tất cả những người chịu thiệt thòi trong các cuộc xung đột này đang đòi hỏi công bằng. Họ đòi được trả lương xứng đáng cho sức lao động của họ, được trả lại những phần đất của tổ tiên, được hưởng những quyền lợi căn bản nhất của con người như: tự do đi lại, từ do tôn giáo, tự do ngôn luận…” (Gợi ý suy niệm trong đêm cầu nguyện của sinh viên tổng giáo phận Hà Nội). Với hiện thực của đất nước Việt Nam còn nhiều bất công nên trong buổi cầu nguyện cho công lý và hòa bình hôm nay, sinh viên của tổng giáo phận Hà Nội xin dâng lên Chúa những lời nguyện cầu khẩn thiết, xin Chúa “đốt lửa kính mến trong lòng chúng con để chúng con biết yêu chuộng công lý - hòa bình. Dù phải hi sinh gian khổ, chúng con cũng nguyện một lòng trung kiên để luôn thuộc trọn về Ngài là Chân Lý, là Tình Yêu và là Sự Sống…” (Lời nguyện kết thúc buổi cầu nguyện của sinh viên tổng giáo phận Hà Nội)

Khác với không khí trang nghiêm của buổi cầu nguyện Taize là buổi biểu diễn văn nghệ sôi động, náo nhiệt với đủ các thể loại từ nhạc trữ tình tới nhạc rốc, từ những lời ca về Chúa, về quê hương tới những bài hát về tình yêu trai gái, về tình cảm gia đình… Tuy đều là những nghệ sĩ nghiệp dư nhưng với sự chăm chỉ luyện tập mỗi tiết mục đều thể hiện nét đặc sắc riêng, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả. Bạn Hiền (sinh viên trường Cao đẳng Giao thông vận tải), một sinh viên không theo đạo Công giáo cũng tới tham dự buổi biểu diễn văn nghệ với sinh viên tổng giáo phận Hà Nội cho biết: “ buổi diễn văn nghệ hôm nay rất tuyệt vời. Tiết mục nào cũng được các đội chuẩn bị chu đáo nên thể hiện rất thành công. Tới dự buổi biểu diễn văn nghệ hôm nay tôi thấy hiểu hơn về đạo Công giáo, về người Công giáo nói chung trong đó có các bạn sinh viên. Tôi rất phục các bạn sinh viên Công giáo, các bạn không chỉ là những người con ngoan trong gia đình, trò giỏi trên giảng đường, con chiên đạo đức của Chúa mà còn là những người rất yêu văn nghệ, rất có tài biểu diễn văn nghệ”.

Cuộc thi “rung chuông vàng” và thánh lễ tạ ơn

Cuộc thi “rung chuông vàng” đã một lần nữa khẳng định thêm tầm hiểu biết trên nhiều phương diện của các bạn sinh viên Công giáo tổng giáo phận Hà Nội. Các bạn không chỉ thông thạo kiến thức về khoa học xã hội mà còn am hiểu sâu sắc về Kinh Thánh từ Cựu Ước tới Tân Ước. Cuộc thi nào cũng sẽ có hồi kết và cũng sẽ tìm ra được chủ nhân của người thắng cuộc. Cuộc thi “rung chuông vàng” của các bạn sinh viên Công giáo tổng giáo phận Hà Nội hôm nay cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sau những câu hỏi hóc búa, sau hàng loạt các thí sinh phải rời đấu trường thì bạn Maria Nguyễn Thị Liễu (thuộc nhóm Bùi Chu) vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”, bạn đã lần lượt loại được 69 thí sinh và là người “rung được chuông vàng” (tuy chẳng có chuông vàng để rung). Phần thưởng giành cho bạn là 1 triệu đồng và 1 cuốn Kinh Thánh Tân Ước viết bằng tiếng Anh.

Thánh lễ tạ ơn được diễn ra long trọng vào lúc 10 giờ. Với sự hiện diện của Cha tổng phụ trách –Lê Trọng Cung, cha xứ Cẩm Cơ - Vũ Quang Hùng, Cha Nguyễn Văn Khải (DCCT) và Cha Phạm Bá Quế (vừa du học bên Rôma về).

Trong bài giảng hôm nay cha chủ tế nhấn mạnh tới chủ đề “hãy tỉnh thức” vì đây là Chúa Nhật cuối cùng trong năm phụng vụ chuẩn bị bước vào mùa vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Cha cũng không quên nhắc nhở các bạn sinh viên Công giáo cần tỉnh thức để nhận ra đâu là sự thật trong xã hội đầy ô nhiễm. Các bạn cần góp mình vào việc cải tạo môi trường đang bị ô nhiễm đó. Các bạn cần trở nên như những bông sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Mỗi bạn sinh viên Công Giáo cần tin vào Chúa, dũng cảm làm chứng cho sự thật, cho công lý để mỗi người biết “đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”.

Thánh lễ truyền thống của sinh viên Công giáo tổng giáo phận Hà Nội năm 2008 đã kết thúc nhưng dấu ấn của ngày lễ truyền thống đã in sâu trong trái tim mỗi bạn sinh viên. Sau thánh lễ, các bạn tiếp tục trở lại cuộc sống thường nhật với nhiệm vụ chính là học tập, phấn đấu cho sự nghiệp để góp phần xây dựng xã hội cũng như Giáo hội Việt Nam ngày càng trong sạch, vững mạnh. Và mong rằng lễ truyền thống của sinh viên Công giáo tổng giáo phận sang năm mỗi bạn sẽ được trở lại với Cha Thánh Phêrô Lê Tùy để “báo cáo” những thành tích mà mình đạt được trong năm qua và xin Người tiếp tục ban ơn cho cuộc hành trình trong năm tới.

Hương Giang

Mục lục

 

GIÁO HỌ TRUYỀN GIÁO BỔNG ĐIỀN, GP THÁI BÌNH MỪNG LỄ QUAN THẦY PHANXICÔ VÀ ĐÓN CHA QUẢN NHIỆM

9 giờ sáng ngày 30.11.2008, Giáo Họ Truyền Giáo Bổng Điền đã long trọng mừng lễ Quan Thầy Phanxico Xavie và hân hoan đón mừng cha nhiệm sở Giuse Phạm Thanh Quang CSsR.

 

Thành phần tham dự gồm có cha Tổng Đại Diện Giáo Phận Thái Bình Đaminh Đặng Văn Cầu, cha Bề Trên và quý cha Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội, cha Tổng quản lý, quý cha quý thầy và quý sơ thuộc Giáo Phận Thái Bình, cha chính xứ Nghĩa Chính, đông đảo giáo dân các xứ khác, quý vị thuộc chính quyền địa phương và bà con lương dân.

 

Thánh lễ diễn ra rất nghiêm trang sốt sắng nhưng cũng không thiếu phần tưng bừng và hân hoan vì cả trăm năm nay, Giáo họ chưa bao giờ có cha nhiệm sở. Nay họ đã có cha nhiệm sở nên vô cùng hân hoan và mừng rỡ. Thánh lễ diễn ra tốt đẹp.

 

Giáo họ thuộc địa bàn xã Tân Lập, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (Giáo Họ này thuộc Hạt Kiến Xương, Giáo Phận Thái Bình do Đức cha P.X Nguyễn Văn Sang cai quản), nằm ngay cửa ngõ Tỉnh Thái Bình, gần sông Hồng và cầu Tân Đệ. Giáo Họ chỉ có 68 giáo dân trong địa bàn rộng lớn với hàng ngàn lương dân. Đây chính là địa bàn truyền giáo lý tưởng. Hy vọng những ai đang thao thức cho công cuộc truyền giáo cùng chung tay góp sức bằng lời cầu nguyện để đem các tâm hồn về cho Chúa.

CTV CSsR

 

Ngôi nhà thờ giáo xứ Sơn Thủy nơi miền núi Aluới sau 30 năm xây cất vẫn còn dang dở

HUẾ, Việt Nam – Những giáo dân đang sinh sống gần biên giới Việt-Lào trên miền núi cao của tỉnh Thừa Thiên Huế hơn 30 năm qua, và cũng là lần đầu tiên kể từ khi Đạo Công Giáo được du nhập vào Việt Nam, ngôi Nhà Thờ của Giáo xứ Sơn Thủy - Alưới đã khởi công xây dựng, nhưng cho đến nay vẫn còn dang dở. Vì thế, bà con giáo dân trong vùng vẫn hằng mong muốn sớm có nhà thờ để tham dự Thánh Lễ và đọc kinh cầu nguyện hàng ngày.

Là giáo xứ duy nhất trong huyện miền núi Alưới, Sơn Thủy tọa lạc ở độ cao 700 mét so với mực nước biển, lại gần sát với vùng biên giới nước Lào, đời sống Đạo của những người Công Giáo trên vùng đất này hết sức khó khăn vì cách trở thành thị, vì thời tiết khắc nghiệt, vì kinh tế khó khăn, vì sống rải rác mỗi gia đình một nơi và vì họ chưa có nhà thờ.

Trong suốt 20 năm (1975 - 1995), bà con giáo dân hiệp thông với Giáo Hội và nuôi dưỡng Đức Tin của mình qua Đài phát thanh Chân Lý Á Châu. Họ đạp xe hoặc đi bộ hàng chục kilômét từ sáng sớm, tập trung luân phiên tại các gia đình để cầu nguyện và nghe dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật qua Đài Veritas.

Kể từ năm 1995 - 2000, hằng năm vào các dịp lễ trọng như Giáng Sinh và Phục Sinh, một số Linh mục nhiệt tâm của Giáo phận Huế, như các Cha Giuse Đặng Thanh Minh, Cha Phaolô Nguyễn Trọng, Cha Antôn Nguyễn văn Tuyến… đã khăn gói lên đường đến với giáo dân của mình trên vùng kinh tế mới Alưới.

Từ năm 2000 cho đến nay, Tòa Tổng Giám Mục Huế đã giao cho Dòng Thánh Tâm đảm nhiệm công việc mục vụ và truyền giáo cho bà con trên vùng Alưới. Các Tu sĩ Linh mục Micae Hy Nguyễn văn Châu, Giacôbê Hoàng Gia Công, Antôn Huỳnh Đầy và Phêrô Nguyễn Đại của Dòng Thánh Tâm đã lần lượt phụ trách giáo điểm trên cao này. Hàng tuần, giáo dân tập trung về khu đất của ông Nguyễn Hoành hiến làm của chung, họ tham dự Thánh lễ và các buổi cầu nguyện trong một mái nhà tranh tềnh toàng, mặc cho nắng mưa gió rét.

Ngày 1-8-2005, giáo điểm Alưới chính thức được thành lập theo giáo luật, với tên gọi là Giáo xứ Sơn Thủy. Cùng dịp này, Dòng Thánh Tâm và Tòa Tổng Giám Mục Huế đã bổ nhiệm Tu sĩ Linh mục Phêrô Nguyễn Ðại tiếp tục phụ trách Giáo xứ Sơn Thủy.

Nhờ sự quan phòng của Thánh Tâm Chúa, sự bảo trợ của Mẹ Maria Lavang, quý ân nhân xa gần đã quan tâm giúp đỡ để Giáo xứ mạnh dạn khởi công xây dựng nhà thờ, song vẫn còn đây đó những biến chuyển bất ưng và những khó khăn thử thách mới. Nhà thờ đang làm dở dang được khoảng 40%, Cha quản xứ Phêrô Nguyễn Đại đã xin về quê và gia nhập vào đoàn linh mục Triều của Giáo phận Vinh.

Hiện nay, qua sự chấp thuận của Đức Tổng giám mục Têphanô Nguyễn Như Thể, Dòng Thánh Tâm đã cử Tu sĩ Linh mục Stêphanô Trần Đình Tề phụ trách Giáo xứ Sơn Thủy cùng với sự trợ giúp trực tiếp của Tu sĩ Linh mục Simon Trương Quỳnh, Bề trên Tổng Quyền Hội Dòng và sự cộng tác của Tu sĩ Phó tế Giuse Dương Bảo Tịnh, để chăm lo cho bà con giáo dân và tiếp tục hoàn thành ngôi nhà thờ đang còn dang dở.

Cha Tề vừa mới thụ phong Linh mục vào ngày 11 tháng 9 năm 2008, đã vâng lời Bề Trên gánh vác hai vai: vừa làm Giám đốc Đệ Tử Viện lo đồng hành với 70 đệ tử của Dòng, vừa phải lo phụ trách và làm mục vụ Giáo xứ Sơn Thủy, cách Tu viện ở Thành phố Huế 65km về hướng tây.


Hơn lúc nào hết, Hội Dòng Thánh Tâm đã thấy được gánh nặng chồng chất, những lo toan mà người anh em mình đang hy sinh gánh vác. Vì thế, bằng sự khiêm hạ của mình, mọi thành viên trong Dòng Thánh Tâm - Huế tha thiết cậy nhờ quý ân nhân gần xa tiếp tục cầu nguyện và cộng tác giúp đỡ để cho cha Tề và bà con Giáo xứ Sơn Thủy - Alưới sớm hoàn thành ngôi nhà thờ đầy ân nghĩa của mình. Mọi chi tiết xin liên hệ:


Lm. Têphanô Trần Đình Tề,

ĐT: 0543. 240. 879 hoặc 0905393615

hoặc: Lm. Simon Trương Quỳnh

ĐT: 0543.240.518 hoặc 0905071092

DÒNG THÁNH TÂM

67 Phan Đình Phùng-Huế

Việt Nam


 Đàm Nguyên

Mục lục

 

 

Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng thánh đường giáo xứ Phú Linh Giáo phận Vinh

Sáng ngày 02/12/2008, giáo xứ Phú Linh tổ chức Thánh lễ đặt viên đá xây dựng thánh đường mới, chủ sự thánh lễ hôm nay là Đức Giám Mục Phaolô cùng 12 linh mục trong và ngoài hạt Đông Tháp hiệp dâng thánh lễ với toàn thể giáo dân giáo xứ Phú Linh.

Phú Linh là một giáo xứ được tiếp nhận Tin Mừng từ rất sớm, trải dài trên 8 cây số dọc theo quốc lộ IA về phía nam phủ Diễn, bám sát bãi biển từ nam sông Bùng qua Phủ Diễn đến tận chân núi Đền Cuông, vị trí địa lý ấy nói lên tính chất thuận lợi cho việc tiếp xúc với người dân bản địa của các nhà Thừa Sai thời bấy giờ (khoảng nửa cuối thế kỷ XVII), và điều đó cũng cho chúng ta thấy được con người nơi đây đón nhận Tin Mừng rất sớm.

Không ai nắm rõ thời điểm hình thành giáo xứ, nhưng trong miền ký ức của những người cao niên thì Phú Linh chính thức mang tên giáo xứ vào năm 1884. Cuốn Lược Sử Giáo Xứ cũng ghi lại những sự kiện truyền khẩu, không có bút tích để lại ghi rõ thời gian ra đời của giáo xứ. Chỉ biết rằng, trong cảnh bách hại tàn khốc Đạo Chúa của vua quan thời đó, Phú Linh đã kiên vững trong mọi thử thách cam go ác liệt nhất.


Ngôi nhà thờ cũ được xây vào năm 1912 nay đã bị xuống cấp không đảm bảo cho việc phụng tự của bà con giáo dân. Trải qua gần một thế kỷ ngôi nhà thờ này cũng đã được trùng tu sửa chữa, nhưng sự an toàn không còn. Thể theo nguyện vọng của cha quản xứ và toàn thể giáo dân, Bề trên giáo phận đã cấp giấy phép xây dựng mới ngôi Thánh Đường giáo xứ Phú Linh và Thánh lễ đặt viên đá được tổ chức vào ngày hôm nay, 02/11/2008.

Giáo xứ Phú Linh nằm cách thị trấn Diễn Châu khoảng 2,5km về phía Nam và cách quốc lộ IA 300m về phía Tây, hiện giáo xứ có 3399 giáo dân và thuần túy nông nghiệp - nông dân. Ngôi Thánh Đường đang tiến hành xây dựng, theo thiết kế có chiều dài 52m, rộng 21m, cánh gà hai bên mỗi bên dài 3,5m, tháp đôi cao 45m và Thánh Đường được thiết kế không có cột. Theo ước tính ban đầu, chưa kể những phát sinh về sau, tổng kinh phí xây dựng khoảng 8 tỉ đồng. Với một giáo xứ thuần nông, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn mà để đóng góp xây dựng một ngôi Thánh Đường rộng lớn và kiên cố hẳn là sẽ gặp nhiều trở ngại. Chúng tôi được biết, kinh phí xây dựng chủ yếu là huy động từ sự đóng góp của giáo dân. Dầu vậy, tinh thần cao cả và khát mong có được một ngôi nhà thờ xứng tầm và đáp ứng được nhu cầu phượng tự của một giáo xứ lớn, giáo dân đã rất hồ hởi phấn khởi để cùng với cha quản xứ Giuse Nguyễn Quang Trung chung sức đồng lòng và thể hiện sự quyết tâm cao trong việc xây dựng ngôi Thánh Đường giáo xứ.


Sẽ khó kiến giải được một cách rốt ráo sự kiện có một ngôi Thánh Đường to lớn mọc lên giữa một giáo xứ với phần đông giáo dân đang còn nghèo, nếu chúng ta không nhìn nhận nó dưới góc độ niềm tin tôn giáo. Vua Đa-vit xưa đã thốt lên những nỗi niềm thao thức khi chưa có được một chỗ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự: “Tôi quyết chẳng về nhà, chẳng lên giường nằm nghỉ, chẳng bao giờ chợp mắt khép mi khi tìm được một nơi cho Đấng toàn năng nhà Gia-cóp”. Câu hỏi đặt ra là: Phải chăng niềm thao thức, nỗi trăn trở của Đa-vít xưa cũng chính là những nỗi niềm thao thức của giáo dân Phú Linh hôm nay. Sự gặp gỡ giao thoa trong tâm tưởng của những con người cách xa nhau hàng ngìn năm ấy phải chăng chỉ là sự ngẫu nhiên? Không, chính niềm tin đã làm nên sự kỳ diệu đó, đã kéo chúng ta lại gần nhau và đã nhào nặn những con người xa lạ chúng ta nên một. Chính niềm tin là chất liệu cố kết chúng ta nên một, để trong tinh thần đoàn kết đã tạo nên sức mạnh mà không một thế lực nào có thể phá vỡ.

Người Pháp đã có một câu châm ngôn rất hay rằng: "Mất tiền còn có thể tìm lại được, mất danh dự cũng có thể phục hồi, còn mất niềm tin là mất tất cả". Thật vậy, con người không thể sống thiếu niềm tin. Không tin vào Thiên Chúa thì người ta sẽ tin vào một thế lực siêu nhiên thần thánh nào đó mà trong niềm xác tín của mình niềm tin ấy sẽ tạo nên một sự bình an và giúp họ sống có lý tưởng hơn. Nói cách khác, người ta không thể vô thần theo kiểu phủ nhận hoàn toàn thế giới thần linh để sống trong một hoàn cảnh tạo nên những tương quan mà phía trước cuộc đời thì mù mịt, quá khứ thì phủ kín vây bọc một màn tăm tối, chỉ có người với người giữa một thế giới câm lặng vô hồn và rên xiết trong vực thẳm của vô nghĩa. Thật vậy, niềm tin đã tiếp thêm sức mạnh và vực dậy được sức sống của giáo xứ Phú Linh, để hôm nay, việc làm đang và sẽ tiến hành đó chính là minh chứng hùng hồn cho một cộng đồng sống có niềm tin và tin vững mạnh vào một vị Thiên Chúa tình yêu.

Chúng ta tin tưởng vào sự quyết tâm của giáo dân giáo xứ Phú Linh. Một ngày không xa nữa, ngôi Thánh Đường to đẹp sẽ được hoàn thành như niềm mong ước bấy lâu của giáo dân giáo xứ Phú Linh.

Tràng Đình

Mục lục

 

Giáo xứ Bản Quấn thuộc Lạng Sơn kỉ niệm 100 năm đón nhận Tin Mừng

LẠNG SƠN - Nếu nhìn vào bản đồ tỉnh Lạng Sơn thì khó mà có thể xác định được địa danh Bản Quấn. Thế mà nơi bản làng hẻo lánh này cách đây 100 năm đã ghi dấu chân của các Thừa sai Paris chi Lyon. Là một bản làng nhỏ thuộc huyện Lộc Bình, cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 25 km. Gọi là giáo xứ là gọi cho hơn 30 năm trước đây mà thôi. Do chiến tranh loạn lạc cộng với sự biến động của thời cuộc hôm nay giáo xứ chỉ còn vỏn vẹn năm bảy gia đình Công giáo, không còn nhà thờ hay nhà nguyện và và tất nhiên là cũng chẳng có cha xứ. Không còn nơi hội họp thờ tự, không còn được chăm sóc trực tiếp và thường xuyên bởi mục tử, nhưng ngọn lửa đức tin vẫn còn đang âm ỉ ngầm cháy và âm vang của Tin Mừng Sự Sống vẫn còn vang vọng đâu đây nơi nương rẫy và trong các gia đình Công giáo nơi bản làng.


Hôm nay, kỷ niệm tròn một năm Giám mục, vị cha chung của giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng đã chọn Bản Quấn là nơi để người dâng Thánh lễ tạ ơn cũng là ngày lễ quan thày của giáo xứ kỷ niệm 100 năm đón nhận ánh sáng Tin Mừng. Với tiết trời xe lạnh đầu đông của vùng núi sứ Lạng, hơi ấm của tình Chúa và hơi ấm của tình người đã được lan tỏa vì cùng đồng tế với Đức cha còn có linh mục đoàn của giáo phận cùng đông đảo anh chị em tu sỹ và giáo dân của các xứ lân cận đến tham dự Thánh Lễ. Không trống kèn rước sách, nơi dân Lễ là nền sân đất của một gia đình giáo dân, nhưng Thánh Lễ diễn ra thật xúc động trong bầu khí ấm cúng và trang nghiêm.


Trong bài chia sẻ Tin Mừng của mình, Đức cha đã nhắc đến ngọn lửa đức tin, lòng khao khát và nhiệt huyết truyền giáo của thánh quan thày giáo xứ Phanxicô Xaviê. Cùng với bà con giáo dân người còn ôn lại hành trình đón nhận Tin Mừng của những người đang sống nơi mảnh đất này. Không quên mời gọi con cái tri ân Cha Nhân Lành về món quà đức tin mà cha ông họ đã nhận được ngang qua các vị thừa sai đầu tiên và hôm nay họ là những người đang kế thừa.


Đáp lại tấm chân tình của vị chủ chăn, linh mục đoàn cùng toàn thể nam nữ tu sỹ và mọi người có mặt trong Thánh lễ tạ ơn, vị đại diện của bản làng không dấu được nỗi xúc động khi đơn thành chia sẻ: “chúng con tưởng rằng ngọn lửa đức tin của của bản làng chúng con đã bị lớp tro tàn cuộc đời vùi lấp, nhưng hôm nay ngọn lửa đức tin ấy lại được khơi lên và lòng chúng con đã được ấm lại. Xin đừng quyên chúng con!”. Mọi người như lặng đi trước những lời chia sẻ xuất phát từ sâu thẳm cõi lòng của những người khao khát Tin Mừng và biết rằng mình vẫn còn có chỗ đứng trong lòng Mẹ Giáo hội.

Khi có sự gặp gỡ giữa những con tim, cũng chính là Thánh Linh Thiên Chúa khơi dậy thao thức tông đồ nơi các mục tử và cũng một Thần Khí ấy nối kết lòng người lại vơi nhau nhờ những sẻ chia đơn sơ nhưng chân tình. Chân tình đến độ không còn chút e dè ngần ngại. Sau Thánh Lễ, khoai sắn được dọn ra, mọi người vui vầy san sẻ thành quả lao tác nơi nương rẫy của của bà con nghèo bản Quấn. Không mâm cao cỗ đầy, không cao lương mỹ vị nhưng ai ai cũng thấy no lòng vì nơi ấy dư tràn ơn Chúa và ấm áp tình người. Để cụ thể hóa sự quan tâm của mình, Đức cha đã đến thăm hỏi động viên và chúc lành cho từng gia đình Công giáo trong bản trước khi nói lời chia tay.


Chia tay nhưng không quên hẹn ngày tái ngộ, ngày ấy chắc sẽ không xa vì Đức cha và các cha trong giáo phận đã có kế hoạch đặt tại nơi đây một nguyện đường trên chính mảnh đất mà cách đây hơn 30 năm đã có sự hiện diện của ngôi nhà thờ giáo xứ Bản Quấn.

Dominic Vũ

Mục lục

 

 

 

THANH HÓA – ĐẾN VỚI CÁC NẠN NHÂN LŨ LỤT PHÍA BẮC


 Những trận bão và lũ lụt đi qua đã để lại biết bao nhiêu tang thương, mất mát. Không chỉ là vật chất mà còn là sự đỗ vỡ trong tâm hồn của những người vợ mất chồng, cha mẹ mất con, anh chị em mất nhau. Đứng trước cảnh tượng đó, mỗi người mang một nỗi niềm riêng…


Giáo phận Thanh Hóa cũng đã chia sẻ niềm đau ấy, bằng cách vươn dài “cánh tay thương cảm” đến Giáo phận Đà nẵng (2006) và Giáo phận Vinh (2007). Và hôm nay, ngày 28.11.2008, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh đã kêu gọi sự yểm trợ của các ân nhân để thực hiện những chuyến cứu trợ cho các nạn nhân lũ lụt phía Bắc thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội và Giáo phận Vinh. Ngài chủ trương sẽ tiếp tục tổ chức những chuyến cứu trợ khác trong nay mai.

 

Trong khí trời rét buốt, khi nhiều người còn cuộn mình trong chăn ấm, thì tại khuôn viên Tòa Giám mục đã rộn rịp bóng người qua lại. Phái đoàn trên dưới 40 người gồm đông đủ thành phần dân Chúa: Đức Cha Giuse, Cha Tổng Đại diện Phêrô Vũ Tiến Phúc, Cha Giuse Vũ Thanh Long - Trưởng Ban Thường vụ TCV Lê Bảo Tịnh, cha Micae Vũ Đức Khiêm và cha Antôn Trịnh Đình Thiệu thuộc Ban Bác ái xã hội của giáo phận, cha Giuse Nguyễn Văn Ba – đại diện Linh mục đoàn. Bên cạnh đó, còn có các chủng sinh, nữ tu, ứng sinh, nhóm sinh viên Công giáo, Ban Hành giáo và ca đoàn giáo xứ Chính Tòa. Đúng 4g sáng, sau khi được Đức Cha Giuse làm nóng bầu không khí bằng sự động viên khích lệ và lời hát của Kinh Hòa Bình, 5 chiếc xe đã tuần tự nối đuôi nhau rời Tòa Giám mục Thanh Hóa.


NHỮNG ĐIỂM HẸN CỦA TÌNH HIỆP THÔNG


Điểm đến đầu tiên là Giáo xứ An Phú thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội, với ngôi nhà thờ cổ kính được xây dựng từ năm 1914. Đâu đó dưới lớp rêu phong, chúng tôi cảm nhận được nét buồn của sự thiếu thốn. Cha Quản xứ hướng dẫn phái đoàn đến xứ Trung Hiếu là nơi được Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt quan tâm đề nghị cứu trợ đầu tiên. Với những con đường nhỏ, hẹp và ngoằn nghèo, xe chở hàng đã không vào được khuôn viên nhà thờ, mọi người trong phái đoàn và các nạn nhân đứng thành hàng dài để vận chuyển quà cứu trợ, gồm: gạo, nước mắm, cá khô, chăn màn. Một người đã tâm sự với tôi: “Chúng con đón nhận chủ yếu là tấm lòng, còn không thể thấm vào đâu so với những gì chúng con đã mất mát”. Tôi thấy họ cười trong nước mắt lưng tròng…


Đức Cha Giuse đã an ủi họ rằng, tuy dù những món hàng mang đến nơi đây chẳng khác gì “bột ngọt bỏ vào nồi canh”. Nhưng Trung Hiếu đã “chiếm hàng đầu trong trái tim mục tử của Đức Tổng”, và họ là đối tượng của niềm thương mến trong lòng những người đến được nơi đây cũng như quý ân nhân không thể trực tiếp gặp gỡ họ, nhưng đã gởi tặng họ tấm lòng vàng, đó là: Hội Bác ái Phanxicô thuộc tiểu bang California- Hoa Kỳ, UBBAXH trực thuộc HĐGMVN phía Bắc do Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến phụ trách và Hội từ thiện của Dòng tên do cha Micae Trương Thanh Tâm đảm nhiệm. Ngoài vật phẩm, Đức Cha Giuse còn trao cho cha Quản xứ một số tiền mặt.


Cha Quản xứ đã đưa phái đoàn đi thăm một số gia đình khó khăn. Và thật khó tin, khi vẫn còn những mái nhà tranh vách đất, mà muốn vào bên trong phải khom lưng xuống. Một người trong phái đoàn đã buột miệng: “Làm sao tin được một vùng phụ cận thủ đô như tỉnh Hà nam lại vẫn còn những nhà nghèo đến thế,, nghe thật là “nhức nhối”.


Không thể diễn tả hết được nỗi vui của người nghèo được viếng thăm. Đoàn cứu trợ đã lần lượt đến thăm một người đàn bà bị sét đánh liệt tay, một người đau tim nặng, một cụ bà mất con tóc bạc da mồi, lưng không còn đứng thẳng được. Bà vừa khóc vừa thưa với Đức Cha Giuse: “ Đức Cha đến thăm con như Chúa đến nhà, con mừng muốn vỡ cả tim” nghe thật cảm động…


Trong lúc nghỉ chân để chờ nhau cùng đến giáo phận Phát Diệm, chúng tôi đã ghé thăm “chái nhà” của một lương dân ở ngay bên vệ đường. Không thể vào bên trong vì quá hẹp, đủ chứa một chiếc chỏng tre và chiếc bếp lò. Người đàn bà trên 90 tuổi cho chúng tôi biết, bà đã ở cái chái nhỏ ấy hơn một năm trời với người con trai thứ tư (64 tuổi) bị tâm thần nhẹ. Chúng tôi mời bà dùng một ít lương khô phái đoàn mang theo và biếu hai mẹ con bà một ít tiền riêng. Khuôn mặt nhăn nheo của Bà bỗng rạng rỡ, tôi thấy Bà thật đẹp…


Đến Giáo hạt Vô Hốt – Phát Diệm, nơi đây nước ngập từ ngày 01.11 mãi 5 ngày sau mới rút và đến ngày 10.11 mới bắt đầu dọn dẹp được. Ngày lễ các thánh năm nay, giáo dân đi lễ rất ít, số đi được là những gia đình có lầu, có gác. Một số đứng trên sân thượng nhà mình để dự lễ, số khác ngồi trên thuyền. Một thánh lễ có lẽ là “độc nhất vô nhị” trong lịch sử giáo hội. Sau khi đến viếng Đức Mẹ Sầu Bi tại Đồng Đinh, cha Hạt trưởng đưa chúng tôi đi thăm giáo xứ Ngọc Cao và Đồng Đinh là hai nơi bị nặng nhất. Số nhà ngập nước là 100% và có 2 người thiệt mạng.


Tại Ngọc Cao, nơi mà trận lụt lịch sử năm trước, phái đoàn Thanh Hóa đã có dịp đến thăm, thì những con đường dẫn vào nhà thờ còn đi được, nhưng năm nay đã ngập chìm trong nước lũ phải đi bằng thuyền. Ngôi nhà thờ mới đang được xây dựng nằm bọc phía ngoài nhà thờ cũ. Đang làm dỡ dang thì hết kinh phí, nên giáo xứ vẫn tận dụng ngôi nhà thờ “ngàn sao”(mái ngói rách nát) tạm thời làm nơi phụng tự.

SỨ ĐIỆP TRONG LŨ LỤT


Đức Cha Giuse ân cần nói với các nạn nhân: “Cha đến đây với tâm tình người Cha trong giáo phận đến thăm đoàn con của mình. Cha tin tưởng Thiên Chúa sẽ rút ra sự lành từ những sự dữ. Chẳng hạn, từ ngày Đức Mẹ Đồng Đinh bị “tai nạn”, Mẹ bỗng nổi tiếng khắp thế giới, và ngày nay, Mẹ…đẹp hơn xưa. Sứ điệp của Đức Mẹ là sứ điệp Hòa Bình, nhờ đó lương – giáo hiểu nhau hơn, Mẹ biến phân hóa thành đoàn kết, biến động thành bình an. Cũng vậy, một cách nào đó, “nhờ” cơn lũ, con người có dịp xích lại gần nhau hơn, chúng ta bị hẩm hiu vật chất nhưng được ưu đãi tình cảm. Chúng ta trở thành đối tượng của sự yêu thương và hun đúc những trái tim biết yêu thương. Chúng ta hãy đến với Mẹ để Mẹ biến cái nghèo, cái khổ, cái mất mát của chúng ta trở nên giàu có trong Chúa. Ngoài hiện vật, Cha đã “vét” hết tiền mang theo để gởi lại cho chúng con”. Những tràng pháo tay vang dội, những nét mặt hân hoan. Niềm thương mến như ánh sáng đẩy lùi bóng tối khổ đau của cơn lũ lụt…


Các cha trong phái đoàn cũng sẻ chia tâm tình thương cảm, chúc ngôi nhà thờ mới sớm được hoàn thành và chúc mọi người hưởng một mùa Giáng sinh an bình, hạnh phúc.


Bạn Nguyễn thị Phượng, Phó phụ trách nhóm sinh viên Công giáo đã chia sẻ với bà con giáo dân: “Đây là lần đầu chúng con được đến những nơi này. Tuổi trẻ chúng con, với tình cảm nhạy bén, cảm thấy trái tim bồi hồi..Qua việc được tiếp xúc thực tế như hôm nay, chúng con tin chắc sẽ có những bạn trẻ dám hy sinh đời mình để phục vụ Giáo hội. Chúng con hứa sẽ nổ lực trong học tập, trang bị cho mình hành trang vào đời để mang lại hạnh phúc cho con người”.


Tôi đi giữa đoàn người nghèo khổ mà thấy mình quá sung sướng, quá đầy đủ, vậy mà ít khi tôi bằng lòng với hiện tại. Những nạn nhân lũ lụt đã dạy cho tôi bài học can trường trong thử thách, đau thương. Biết chấp nhận những gì xảy đến với một niềm tin tuyệt đối “Thiên Chúa có thể vẽ nét thẳng trên những đường cong”.

 

Nhật Vy

Mục lục

 

Tu viện Mến Thánh Giá Kẻ Nghệ mừng lễ bổn mạng

HÀ NỘI - Ngày 3/12/2008 Tu viện MTG Kẻ Nghệ, Thường Tín mừng lễ Bổn mạng. Cha Phêrô Trần Văn Chương, Quản hạt Phú Xuyên-Thường Tín, Chính xứ Kẻ Nghệ, cùng giáo dân trong Giáo xứ đã tổ chức một thánh lễ trọng thể để mừng các chị em của Tu viện này tại nhà thờ Giáo xứ. Tham dự Thánh lễ mừng hôm nay còn có sự hiện diện của 4 cha DCCT đang làm đại phúc ở Hà Thao và Phú Mỹ.

Được biết Tu viện MTG Kẻ Nghệ là vốn là một Nhà Mụ lâu đời đã được thành lập từ hơn 200 năm nay ở giữa làng. Các chị em sống chan hoà với dân chúng trong làng và phục vụ họ rất đắc lực.

Hiện tại Tu viện có khoảng hơn một chục chị em. Các chị em ỏ đây đang giúp mục vụ các giáo xứ trong vùng, làm ruộng, dạy mẫu giáo cho hơn 100 em nhỏ trong làng, nuôi 7 người tàn tật trong Tu viện, thăm viếng và giúp đỡ các trường hợp nghèo khổ trong vùng bất luận lương giáo. Chi phí cho các công việc tông đồ hoàn toàn do các chị em tự đảm đương, hoàn toàn không có một nguồn trợ giúp nào. Đời sống tu trì và phục vụ của các chị em có những rất cổ kính và tinh tuyền.

Giáo dân trong xứ rất yêu mến và gắn bó với các nữ tu. Ngày lễ quan thầy hầu như cả làng đều đến mừng lễ Tu viện và tham dự thánh lễ cầu nguyện cho các chị em. Có người còn xin lên đọc thơ mừng các nữ tu. Tuy có vẻ là một bài thơ “con cóc”, nhưng thể hiện tấm lòng người Kẻ Nghệ dành cho các nữ tu và phản ánh được thực trạng đời sống của các chị em MTG Kẻ Nghệ:

Giuse Nghiêm Văn Duật

 

 

Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu

BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA PHÉP LẠ TRÀ KIỆU

Sau khi quân Pháp chiếm cứ nhiều tỉnh của Việt Nam, lòng dân đã trở nên thù hận với đạo Kitô do các linh mục ngoại quốc rao truyền. Gần hơn nữa, khi kinh đô Huế thất thủ vào tay người Pháp, Tôn Thất Thuyết hộ giá Vua Hàm Nghi ra Quảng Trị và Hịch Cần Vương ra đời, cổ võ việc bách hại đạo Kitô, đánh đuổi quân Pháp và khôi phục đất nước, phong trào giết đạo Kitô càng thêm phát triển mạnh mẽ hơn.

Vì thế, ngày 1 tháng 9 năm 1885, một ngày sau ngày Văn Thân chiếm được thành Quảng Nam, binh sĩ Văn Thân đông đến vài chục ngàn người, với vũ khí hùng mạnh, đại bác lớn nhỏ và với sự trợ giúp của cả tỉnh Quảng Nam, ào ạt kéo đến vây trà Kiệu, một họ đạo nhỏ bé vô tội, khoảng 1 cây số vuông diện tích và với khoảng 1500 giáo dân, kể cả người già, đàn bà và con nít, thiếu hẳn các phương tiện tự vệ.

Với cán cân lực lượng chênh lệch như thế, lẽ ra Trà Kiệu đã phải gục ngã trong trận tấn công đầu tiên của binh sĩ Văn Thân. Nhưng không, Trà Kiệu vẫn tồn tại để ca tụng danh Mẹ: Mẹ Trà Kiệu, Mẹ của vinh quang. Tại sao ? Suốt 21 ngày giao tranh, binh sĩ Văn Thân đã nhiều lần chứng kiến một "Bà Mặc Áo Trắng" đứng che chở Trà Kiệu trên nóc nhà thờ, cùng khiếp sợ trước cơ binh con nít áo đỏ, áo trắng, đã ào ào từ không trung tràn xuống theo lũy tre xanh, tay hươi gươm bạc sáng ngời và chiến đấu phụ giúp giáo dân bảo vệ Trà Kiệu. Cuộc vây hãm mỗi ngày một dữ dội hơn, các trận giao chiến mỗi ngày một quyết liệt hơn, Trà Kiệu hầu như tuyệt vọng, mặc dầu Văn Thân chưa một lần phá vỡ được vòng đai phòng thủ của Trà Kiệu.

Sáng ngày 21 tháng 9 năm 1885, để tự giải thoát cho mình, giáo dân Trà Kiệu quyết chí đánh du kích vào Bộ Chỉ huy của Văn Thân trên Ðồi Bửu Châu, ngọn đồi xinh đẹp nằm về phía đông Trà Kiệu. Lần này đoàn quân thiên thần tí hon lại xuất hiện và Trà Kiệu chiếm được Bộ Chỉ huy Văn Thân. Trà Kiệu từ đó thoát khỏi cảnh diệt vong.

Ðể đền tạ ơn Mẹ, giáo dân Trà Kiệu đã xây một đền thờ xinh đẹp trên đồi Bửu Châu để dâng kính Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu (1898). Từ đó nhiều ơn lạ Mẹ đã thông ban cho những ai đến kính viếng đền Mẹ. Tòa Giám mục Ðà Nẵng cũng đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu của Giáo Phận. Và kể từ đó các sinh hoạt tôn vinh Mẹ có tầm vóc quốc gia đã được thường xuyên tổ chức. Và đến hôm nay, với sức cố gắng phi thường của cả Trà Kiệu, trẻ cũng như già, ngày đêm kiến thiết xây dựng, quyết tâm làm cho danh Mẹ Trà Kiệu thêm sáng rạng, trong đó có công tác thực hiện tập sách lịch sử này.

Lần giở những trang sau, chúng ta sẽ hiểu cặn kẽ hơn về các phép lạ Mẹ làm cho con cái Mẹ mà dâng lời cảm tạ Chúa.

CHƯƠNG II: ÐỨC MẸ TRÀ KIỆU LÀM PHÉP LẠ

(Ðây là bản dịch tài liệu "Une Page de la Persécution en Cochinchine", do linh mục M. Geffroy của Hội Thừa Sai Paris, đăng trên tuần báo Les Missions Catholiques, xuất bản tại Lyon, Pháp Quốc vào các ngày 3.9; 10.9; 17.9 và 24.9.1886, để kỷ niệm một năm sau biến cố Trà Kiệu).

Chúng ta biết rằng: Giáo dân Quảng Nam (nay là Quảng Nam, Ðà Nẵng) được chia thành 3 khu vực. Khu vực phía Bắc, gần Ðà Nẵng, do quyền cai quản của cố Thiên (Maillard). Khu vực ở giữa, gần thủ phủ Quảng Nam, do cố Nhơn (Bruyère) coi sóc. Còn khu vực phía Nam được giao phó cho một linh mục bản xứ là cha Cân Du.

Không hiểu vì sao mà cuộc nổi dậy của Văn Thân, (tức phong trào Cần vương) lại bắt đầu nổi lên ở Tư Ngãi (Quảng Ngãi), rồi mau lẹ lan tràn vào phía Nam, đến Bình Ðịnh. Trong khi đó, ở Quảng Nam, cuộc nổi dậy của Văn Thân lại chậm hơn. Sự chậm trễ này không biết có phải là do Trà Kiệu ở gần thủ phủ Quảng Nam hay không, hay vì sự hiện diện của một đại đội thủy quân lục chiến và một chiến thuyền Pháp ở Ðà Nẵng. Thực ra điều đó chúng ta không biết đích xác được. Nhưng thực tế là sau một tháng rưỡi xảy ra cuộc tàn sát giáo dân ở Tư Ngãi, giáo dân ở Quảng Nam có thể đi lại bình thường, bằng chứng là vào những ngày đầu tháng 8 (1885), một đoàn chừng 200 giáo dân ở khu vực cố Garrin (Tư Ngãi) đã vượt qua phần đất phía nam tỉnh Quảng Nam để chạy ra Trà Kiệu mà không bị gì cả. Tuy nhiên trong thời gian này, nhiều tin đồn về một cuộc bách hại khủng khiếp đã lan đi khắp nơi. Chính cố Thiên cũng đã nghe đồn rằng: Trà Kiệu bị Văn Thân bao vây; Nên vào ngày 1 tháng 8 năm 1885 Cha đã xuống Ðà Nẵng báo tin cho đại úy đồn trưởng Ducres, để nhờ ông ta đi giải cứu cho cố Nhơn. Quân giải cứu đến Trà Kiệu, nhưng không thấy một nghĩa quân Văn Thân nào cả, mà cũng chỉ nghe toàn là tin đồn như những nơi khác mà thôi.

Ðến ngày 15 tháng 8 năm 1885 thì những tin đồn này lại càng dữ dội hơn, đến nỗi Cha Cân Du và hơn một nửa giáo hữu của Ngài phải chạy trốn vì quá khiếp sợ. Một số ra nương náu ở Trà Kiệu, một số ra tỵ nạn ở Ðà Nẵng, một số khác lại lên Phú Thượng. Số còn lại, vì quá nghèo, nên họ đành phải ở lại quê nhà, thà bị quân Văn Thân giết hơn là phải chết đói ở Ðà Nẵng hoặc nơi nào khác.

Nhưng từ ngày 20 đến 25 tháng 8 thì những tin đồn khủng khiếp đó lại lắng xuống. Người ta bảo rằng Văn Thân Quảng Nam sợ quân Pháp trả thù nên không dám nổi lên như Văn Thân ở Tư Ngãi và Bình Ðịnh, nhiều giáo dân ở khu vực Cha Cân Du tưởng rằng bình an đã trở lại, cả Cha Cân Du đang nương náu ở Trà Kiệu, cũng chuẩn bị trở về. Ngài đã cho các chức việc (giáo chức) về trước để lo cho giáo xứ.

Ðến ngày 26 tháng 8 năm 1885 thì những tin đồn kinh khủng đó lại loan đi trở lại. Lúc này Cha Cân Du đã rời khỏi Trà Kiệu rồi, nhưng nhờ �linh cảm�, thay vì đi về khu vực của Ngài ở phía Nam thì Ngài lại đi ra hướng Bắc, tức Ðà Nẵng, và Ngài cũng vừa đủ thời gian để tới nơi an toàn. Còn giáo dân của Ngài đã trở về nhà thì không được cái may mắn chạy thoát như Ngài, vì khi họ định tháo lui thì mọi ngả đường đã bị ngăn chặn. Họ đã bị tàn sát cùng với số giáo dân không thể đi lánh nạn được. Số giáo dân bị tàn sát trong dịp này trên 1000 người, gồm có 650 người ở khu vực Cha Du, 280 người ở khu vực quanh Trà Kiệu và khoảng 100 người ở quanh Phú Thượng.

Ngày 31 tháng 8 năm 1885, quân Văn Thân bắt đầu tập trung và chiếm cứ khu trung tâm thủ phủ. Tại Quảng Nam cuộc tàn sát cũng xảy ra một cách thảm khốc như ở Bình Ðịnh và các nơi khác. Một vài ngày trước đó, quân Văn Thân đã cử những cựu quan chức đến các vùng Công giáo để phỉnh gạt giáo dân bằng cách hứa hẹn bảo đảm an ninh một cách tuyệt đối, với ý đồ là làm cho người Công giáo yên tâm không chạy trốn, chờ đến ngày đã định, họ có dịp tàn sát cho tận hết. Ông Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, Chỉ huy trưởng quân Văn Thân ở Quảng Nam, đã đến các khu vực Công giáo ở phía Nam của tỉnh và cố dùng lời lẽ ngon ngọt để lừa phỉnh một số lớn giáo dân. Một cựu quan đại thần ở làng Nại Hiên, Ðà Nẵng, lên lừa phỉnh khu vực cố Thiên. Ông ta đến một làng dân bên lương ở gần Phú Thượng và nhắn tin muốn gặp cố Thiên. Cố Thiên trả lời rằng: nếu ông ta muốn gặp tôi thì đến tại nhà xứ chứ tôi không ra. Rồi người ta thấy chính vị cựu quan này đã chỉ huy trận tấn công Phú Thượng ngày 18/10/1885, và đã bại trận trong một cuộc kịch chiến tại đèo Lộc Hòa. Còn các quan chức ở Tỉnh đường cũng cam kết với Thiếu tá Gonec về sự trung thành của họ đối với Pháp quốc, cũng như xin bảo đảm cuộc sống bình thường cho người Công giáo, bằng cách quyết tâm lãnh đạo phong trào Văn Thân, và giữ vững an ninh trật tự. Vì tin những lời lừa gạt đó mà các vị thừa sai đã bị sai lầm và mất cảnh giác về việc "muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh".

Giáo xứ Trà Kiệu bị bao vây vào ngày 1 tháng 9 năm 1885, sau ngày Văn Thân chiếm giữ thủ phủ Quảng Nam. Trà Kiệu lúc bấy giờ chưa có chuẩn bị tự vệ, vì cố Nhơn (Bruyère) nghĩ rằng: Trận chiến sẽ không khủng khiếp hơn trận chiến ở Trung Sơn, Tư Ngãi. Ở đó chỉ có 800 đến 900 giáo dân, kể cả người già và trẻ em, mà đã có thể cầm cự với quân Văn Thân ròng rã hơn một tháng trời. Với Trà Kiệu, Ngài chỉ cần chống cự trong 2 hoặc 3 ngày để xin quân Pháp đến giải cứu, vì đại úy Ducres đã hứa với Ngài một cách chắc chắn rằng, khi nào Ngài bị tấn công, đại úy sẽ lập tức bay vào tiếp cứu ngay. Lời hứa đó cũng được ông ta nhắc lại trong một lá thư gởi cho Ngài vào giữa tháng 8. Vì thế cố Nhơn một phần hy vọng vào sự cứu viện này, nhưng phần lớn là Cha hoàn toàn trông cậy vào sự che chở của Ðức Trinh Nữ Maria. Cha tin là chỉ có Mẹ luôn luôn hiện diện bên Cha. Cha cũng còn nghĩ rằng: thà ở lại Trà Kiệu để cầm cự ít ngày, còn hơn là đưa giáo dân đi lánh nạn ở bãi cát Ðà Nẵng, không nơi trú ngụ, không lương thực thực phẩm.

Giáo xứ Trà Kiệu có được 4 khẩu súng nạp hậu và mỗi cây chỉ có 10 viên đạn, với 5 khẩu súng bắn đá do cố Thiên nhường lại, và một khẩu súng hỏa mai. Thêm vào đó, trong những ngày đồn đại khủng khiếp, giáo dân đã tự rèn một số giáo mác để tự vệ. Toàn giáo xứ lúc đó có 370 nam nhơn có thể cầm vũ khí để tham chiến (tuổi từ 16 đến 60) và được chia ra làm 7 đội. Các phụ nữ khỏe mạnh, độ 500 đến 600 chị, được xếp vào đội dự bị (đội 8). Sau khi đã chỉ định địa điểm phòng thủ cho từng đội, cố Nhơn hoàn toàn phó thác và trông cậy vào Chúa và Mẹ.

Với địa hình địa thế của Trà Kiệu, việc phòng thủ rất bất lợi, vì muốn chiếm giữ những cao điểm để khống chế toàn giáo xứ, thì phải có một lực lượng đông gấp nhiều lần so với lực lượng hiện có. Về phía Tây, có đỉnh đồi rặng Kim Sơn (gọi là Hòn Bằng) cách nhà thờ chừng 120 mét; Còn về hướng Ðông, cách đồi Kim Sơn 1 cây số (1 km) có hòn Bửu Châu (gọi là Non Trọc hay Non Trược) là một quả đồi hình nón nhô lên cao chừng 60 mét đến 70 mét (Giáo xứ Trà Kiệu nằm giữa hai quả đồi này). Về phía Nam, cách một cánh đồng lúa có dãy thành Chiêm, rộng và cao, dấu vết của thành lũy kinh đô Chàm ngày xưa còn lại. Quân Văn Thân đã lập tức chiếm cứ các cao điểm trọng yếu này, nên việc phòng thủ của Giáo xứ rất khó khăn. Còn về mặt Bắc, thì có một bãi cát rộng giáp ranh với tuyến phòng thủ của Giáo xứ, mà mùa hè thì khô cạn, còn mùa đông thì đầy nước.

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1885, khoảng xế trưa, người ta thấy quân Văn Thân từ bốn phía ùn ùn kéo đến, làn người đông nghịt vây quanh giáo xứ hò hét inh ỏi. Họ bao vây như thế ròng rã suốt 21 ngày đêm.

Chiều hôm đó địch chưa tấn công. Họ hí hửng chiếm cứ những cao điểm và lo củng cố những vị trí chiến đấu. Họ chỉ bắn một vài phát súng vu vơ. Giáo dân Trà Kiệu lập tức tiến lên giữ ngọn đồi Kim Sơn và có ý giữ cao điểm này cho đến cùng. Thế nhưng vào ngày hôm sau, tức ngày 02/09/1885, vì khiếp sợ trước lực lượng quá đông đúc của Văn Thân, nên giáo dân không dám ở lại trên đồi cao này nữa. Sau một trận chiến giả vờ, họ đã tháo chạy xuống đồi một cách hoảng sợ, và tìm cách trở vào bên trong vị trí phòng thủ của Giáo xứ. Mặc dầu không phải đương đầu với quân Văn Thân, nhưng vì quá hoảng sợ tháo chạy bán sống bán chết, nên đã bị té chết mất 4 người. Chỉ mỗi cái thất bại này cũng đủ làm cho họ thất đảm, tinh thần nguy ngập và chao đảo. Họ từ chối đi chiến đấu và quyết buông vũ khí để sớm cam chịu số phận bất hạnh của mình. Họ tập trung trước nhà Cha xứ và xin Ngài ban cho các phép sau hết. Họ nói: "Chúng con phải chết, vì tất cả sự tự vệ đều vô ích, chúng con muốn chết ngay tại nhà thờ này hơn là ở chỗ nào khác".

Ðây là một trong những giờ phút đau buồn nhất của cố Nhơn, mặc dù với tất cả cố gắng, Ngài cũng không thể nào khơi lại sự can đảm của họ. Vào buổi chiều ngày 02/09, khi biết quân Văn Thân đang tiến sát vào phía Ðông, cố Nhơn sai một thanh niên mang lệnh cho vị chỉ huy đội 2 là nên bỏ những mảnh vườn riêng lẻ ở dưới chân đồi Bửu Châu, vì khó chống giữ, để lui vào phòng thủ ở bên trong đường ranh của các lũy tre, vừa kín đáo vừa hạn hẹp. Cậu thanh niên đó đã bóp méo sự thật bằng cách nói dối rằng: Cha ra lệnh bỏ tất cả để tập trung về nhà thờ nhận lãnh các phép sau hết và chờ chết. Ðây không phải là lịnh của Cha xứ, mà chính cậu ta phịa ra theo yêu cầu chung của giáo dân. Nhưng may thay, vị chỉ huy đội 2 không tin vào lời phịa này, và cùng lúc đó ông ta thấy quân Văn Thân áp sát rất gần, ông ta mới ra lệnh cho một giáo dân (tự vệ quân) bắn vào chúng. Người vệ quân này núp sau một bụi tre, quan sát rất rõ, nên đã bắn vào toán quân đang kéo khẩu súng đại bác. Người đi đầu ngã xuống, lập tức những người kéo súng ở phía sau vất súng mà tháo chạy. Ðội 2 đã thu được khẩu súng đó. Chiến thắng này cũng không làm cho giáo dân lên tinh thần được. Ban đêm, họ không chịu canh gác mà lui về nhà than khóc, hoặc là tập trung về nhà thờ chờ chết không chịu ra chống cự nữa. Nếu đêm hôm đó quân Văn Thân biết được tinh thần giáo dân suy sụp như thế và họ tổ chức tấn công, thì chắc chắn trong nháy mắt họ có thể tàn sát tất cả mà không ai dám chống cự. Nhưng may thay, kế hoạch của họ là không tổ chức tấn công ban đêm, vì sợ sẽ có một số người, nhờ bóng đêm mà thoát ra ngoài được. Trái lại, ban đêm họ tổ chức canh gác rất nghiêm ngặt, và không ngừng đánh trống gióng mõ. Cứ 5 phút thì người chỉ huy của họ lại bắt loa mà kêu to:

"Ớ các đội, các vệ, phải canh giữ cho nghiêm nhặt, đừng cho đứa nào thoát nghe".

Tiếng a lô, a lô đó vang lên nghe khủng khiếp quanh giáo xứ, rồi cứ lặp đi lặp lại suốt đêm và kéo dài trong 21 đêm như thế. Ðiều đó đã làm cho những người gan dạ nhất cũng phải lạnh người vì khiếp đảm. Chính cố Nhơn khi nghe những lời a lô đó cũng thấy dâng lên trong tim Ngài một nỗi buồn vô tả. Nhưng lập tức Ngài hướng tâm hồn lên cùng Mẹ Maria, người Mẹ đã từng che chở cho Ngài rất nhiều lần, và chính trong cuộc bao vây khủng khiếp này, một lần nữa Ngài lại được sự che chở huyền diệu của Mẹ. Mẹ là nơi nương tựa duy nhất trong những giờ phút tuyệt vọng này, nên Ngài đã khẩn thiết cầu xin Mẹ một cách chân tình, và ngay lập tức Ngài cảm thấy một niềm tin tưởng vô biên. Chính nhờ sự che chở quyền uy của Mẹ mà Cha đã đứng vững đến cùng, và cũng chính trong đêm ngày 2 và 3 tháng 9 giáo dân bắt đầu lên tinh thần đôi chút. Vì thế, vào lúc nửa đêm, Cha đã gọi các vị chỉ huy đến nhà xứ và báo cho họ biết là không còn cách nào khác hơn là phải chiến đấu tự vệ, và Ngài đã quyết định như thế. Chẳng mấy chốc từ người này đến người khác, đều đồng thanh kêu lên "Phải chiến đấu, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa và Mẹ Ðồng trinh". Họ lại bảo với nhau: "Chúng ta phải nghe lời Cha, và nếu phải chết thì chúng ta sẽ chết với khí giới trong tay".

Do vậy mà tối đó người ta bàn tính chuẩn bị cho trận ác chiến vào ngày mai. Họ lo nấu cơm rất sớm, vì sợ trong ngày không có thì giờ để nấu. Và đúng như thế, ngày 3 tháng 9 hôm đó thật khủng khiếp. Họ phải giao chiến từ sớm tinh sương cho mãi đến chiều tối. Năm lần giao chiến là năm lần địch quân bỏ chạy tán loạn. Nhưng sau trận đánh thứ 5, tuy thắng trận, mà tinh thần giáo dân bị suy sụp, vì lúc này họ đã quá mỏi mệt, và thấy quân Văn Thân càng lúc càng đông thêm. Trong khi đó, thì ngược lại, quân Văn Thân cũng khiếp sợ giáo dân nên vừa đụng độ là họ tháo chạy tán loạn. Họ chán nản và thường tụ tập từng nhóm mà oán trách chỉ huy của họ. Còn giáo dân Trà Kiệu thì tin chắc là không thể nào chống cự nổi, nên họ kéo về trước nhà Cha xứ xin Cha cho họ buông khí giới và vào nhà thờ chờ chết. Một vài viên chức lại đưa ra ý kiến �đầu hàng� bằng cách đi đàm phán với quân Văn Thân. Họ sẽ bỏ tất cả nhà cửa, ruộng vườn, của cải, chỉ xin một điều là cho họ ra Ðà Nẵng bình an vô sự. Nhưng lại không có ai dám liều mình đi đàm phán với quân Văn Thân. Cuối cùng họ nghĩ ra một cách là viết các điều kiện đó bằng chữ lớn trên một vuông lụa to rồi cho người đem treo phía trước mặt quân Văn Thân, ngay đầu lũy tre thay thế cho lá cờ lịnh. Lúc đó thì nhà thờ đầy ắp người, họ từ chối không đi chiến đấu nữa, còn Văn Thân thì đang tiến gần đến tuyến phòng thủ phía Bắc. Cha xứ cố gắng hết sức cũng không thể nào đưa họ trở lại vị trí phòng thủ. Họ quỳ xuống trước mặt Cha, vừa khóc vừa lạy, xin Cha ban các phép sau hết. Quân Văn Thân từ trên đồi Kim Sơn đã nghe họ than khóc, nên chúng mai mỉa rằng: "Cố Thiên đến cứu chúng bay đó". Trong trường hợp nguy cấp và tuyệt vọng đó, chính nhờ ông Phổ, chỉ huy đội 1, đã cứu nguy cho giáo xứ. Ông không sợ hãi và không bao giờ nhụt chí, ông không ngừng lặp đi lặp lại: "Phải nghe Cha xứ, phải nghe Cha xứ". Ông nói thêm: "Thật là khốn nạn nếu như chúng ta buông khí giới, vì quân Văn Thân không đời nào cho chúng ta ra Ðà Nẵng một cách an toàn. Ai muốn đàm phán thì đi đàm phán, còn chúng tôi, luôn luôn giữ chặt khí giới và phải chiến đấu cho đến cùng".

Thế rồi tuy mệt nhoài, ông cũng đã tập trung lính của ông lại và dẫn ra giao chiến với quân Văn Thân đang tiến vào phía Bắc. Cùng lúc đó, thầy Phan vì vừa nghe được những lời mai mỉa của quân Văn Thân, nên ông đã lặp lại những lời đó một cách nghiêm trang để khích lệ và trấn an tinh thần những người còn đang ẩn náu tại nhà thờ rằng: "Cố Thiên đang kéo quân đến, chúng ta phải mau ra đẩy lui quân tấn công, để Ngài có thể vào được". Họ nghe thế và tin là thật, nên lại cầm khí giới chạy theo đội quân của ông Phổ. Ông đội Phổ đến cổng ra vào vừa đúng lúc viên chỉ huy đội 2 bắt đầu nói chuyện đàm phán. Khi chỉ huy đội 2 tuyên bố đầu hàng thì đội Phổ chận lại ngay và la to lên:

"Không, không, chúng tôi không bao giờ đầu hàng. Chúng tôi hoặc chiến thắng hoặc phải chết".

Cùng lúc đó ông mở cửa dẫn đầu đội quân ào ạt xông thẳng vào quân Văn Thân một cách hùng dũng, làm cho quân Văn Thân khiếp sợ chạy trối chết. Chúng ta cũng biết rằng, ngày tấn công thứ 3 này (ngày 3/9) rất khủng khiếp đối với giáo dân Trà Kiệu, vì ngày đầu và ngày thứ hai, giáo dân chỉ phải đương đầu với dân bên lương ở các làng quanh đó, nhưng ngày thứ ba này thì tất cả lực lượng ở thủ phủ Quảng Nam đều tập trung về đây rất đông. Nếu như họ có tinh thần chiến đấu không bỏ chạy một số lớn, thì quân số của họ có thể đông gấp 2 gấp 3 lần hiện nay, và có thể đè bẹp Trà Kiệu trong phút chốc. Thế nhưng tại sao Trà Kiệu lại thoát khỏi cơn giáo nạn này ? Một phần là do sự chia rẽ của Văn Thân. Họ có nhiều vị chỉ huy khác nhau và mỗi vị chỉ huy chỉ lo riêng đơn vị của mình. Trong lúc đơn vị này giao chiến thì các đơn vị khác dựng giáo đứng xem và hò reo. Họ không hề hỗ trợ nhau và cũng không bao giờ nghĩ đến việc chận đánh tập hậu giáo dân, vì giáo dân thường rượt đuổi quân địch chạy rất xa. Họ không có kế hoạch tổ chức chung, nghĩa là không có ai chỉ huy tối cao, nên không có vị nào nhường vị nào, giữa họ chỉ có sự ganh tị chứ không có sự thỏa hiệp với nhau.

Ban đêm họ chỉ lo canh gác chứ không tấn công. Và từ hai ngọn đồi họ đặt súng đại bác bắn chừng chừng vào giáo xứ, và thường bắn vào chỗ có ánh sáng hoặc có tiếng chó sủa. Ban ngày họ dùng hai ngọn đồi này làm đài quan sát, nhất là họ cố quan sát để khám phá ra chỗ ở của cố Nhơn. Vì thế mà Ngài phải cạo râu và cải trang, nhưng cũng không sao tránh được, Ngài luôn bị chúng phát hiện: "Tây dương đạo trưởng, Tây dương đạo trưởng, bắn, bắn", chúng la lên và lập tức một quả đạn xẹt qua bên tai Ngài. Cha quản xứ đã trải qua suốt thời gian bao vây với biết bao nhiêu là đau buồn, thất vọng và cay đắng. Ban ngày, Ngài xuống tuyến phòng thủ của giáo xứ để xem xét những chỗ sơ hở yếu thế và kịp thời chỉ đạo việc chiến đấu. Vào lúc ngưng chiến đấu thì Ngài lo chăm sóc những người đau yếu. Nhà thờ cũng như nhà xứ đều chật cứng. Từ bảy, tám ngày nay, Cha không thể ăn uống nghỉ ngơi gì được, nhất là vào ban đêm, với những tiếng kêu thét khủng khiếp của những tên lính canh, rồi tiếng nổ vang trời, làm sao mà Cha có thể yên tâm nghỉ ngơi được. Ban ngày Ngài cũng cố nghỉ một chốc, nhưng rồi lại chợt giật mình trỗi dậy. Ngài đã nói với tôi rằng: "Trong suốt những ngày đêm dài vô tận đó, Ngài đã khóc rất nhiều, nhưng thường là khóc vì vui mừng. Trước sự che chở hiển nhiên của Mẹ Ðồng trinh, tim Ngài phập phồng nức nở, rồi nước mắt sung sướng cứ ràn rụa, và sau đó Ngài lấy lại được sự bình tĩnh".

Ngày 4 tháng 9, giáo dân đã đẩy lui được 2 đợt tấn công, một vào buổi sáng, một vào buổi chiều. Khi quân Văn Thân tiến sát đến vị trí phòng thủ của giáo xứ được làm bằng tre tươi, thì giáo dân lập tức xông ra và bắt đầu giao chiến. Không có trận chiến nào kéo dài quá 10 phút. Văn Thân tuy quân số đông nhưng sớm mất tinh thần rồi quay lưng chạy thoát. Giáo dân Trà Kiệu dần dần bạo dạn hơn và thường phóng đuổi theo, nếu không giết được nhiều quân địch thì cũng thu được một số đại bác, súng ngắn, do lính đào tẩu bỏ lại để chạy thoát thân. Có khi giáo dân cũng gặp cuộc chống cự mãnh liệt, giáo mác giao nhau mà không bên nào dám lui giáo để đâm, vì sợ chính mình lại bị đâm trước. Giáo dân đã dùng mưu mẹo, họ la lên: "Ðổ rồi, đổ rồi, chúng chạy trốn, chúng ta can đảm lên, Giêsu, Maria, hè, hè". Nghe thế, quân Văn Thân đồng loạt ngước mắt nhìn xem thử cái gì đổ, thì ngay giây phút bất ngờ đó, giáo dân chúng ta lui giáo để đâm giết chúng và như thế là quân Văn Thân hoảng sợ lo chạy thoát thân. Còn đội quân dự bị gồm toàn đàn bà phụ nữ, khi có dịp tham chiến họ cũng nhanh chóng tiếp ứng các cuộc giao tranh. Khi trông thấy những người phụ nữ này hùng dũng xông vào chiến trận thì quân Văn Thân run chân tháo chạy trước khi các bà lao đến. Và quả thật như thế, trông họ có vẻ dũng mãnh, với mái tóc tung bay sau lưng, họ nhảy xốc tới, vung gươm giáo hay dao rựa và kêu lên: "Hè, hè, Giêsu, Maria, Giuse, thương chúng con, che chở chúng con". Dù bở hơi tai để rượt đuổi quân địch, nhưng họ vẫn tự hào, khi giết được quân giặc họ trở về tạ ơn Ðức Mẹ. Từ khi bắt đầu bị bao vây, cố Nhơn đã đặt một tượng ảnh Ðức Mẹ trên cái bàn để ngay giữa nhà Cha với hai cây đèn sáp hai bên. Tất cả những lần phải ra trận chống đỡ quân tấn công, giáo dân Trà Kiệu đều thắp đèn và quỳ cầu nguyện. Ai không thể đi chiến đấu được, như già cả và trẻ em, thì quỳ lần chuỗi chung với nhau và khi quân địch bị đẩy lui thì các chiến sĩ trở về tạ ơn Mẹ. Họ quỳ gối trước ảnh Mẹ, tay vẫn còn cầm gươm giáo, có cái còn vấy cả máu, và họ cầu nguyện rất lâu. Có khi đang cầu nguyện họ lại phải gấp rút ra đi để ngăn chận cuộc tấn công mới. Nhưng họ không bao giờ quên trở lại để cám ơn Ðấng Phù Trợ cho chiến thắng mới của họ. Lòng tin tưởng dần dần khơi dậy và người ta bắt đầu hy vọng. Họ không còn nhớ đến cái ngày thứ ba (3/9) hoàn toàn tuyệt vọng đó nữa.

Ngày 5 và ngày 6 tháng 9, quân Văn Thân chỉ bao vây canh gác chứ không mở các cuộc tấn công. Thay vì tấn công thì họ lo xây đắp thành lũy ở phía Bắc, bên kia bãi cát, mục đích là để công cuộc bao vây được nghiêm nhặt hơn, đề phòng sự trốn thoát ban đêm, và đồng thời tạo cho phía giáo dân mất đề cao cảnh giác. Ngoài ra họ còn có mục đích khác là buộc binh lính của họ phải chiến đấu, vì khi bị rào giậu ngăn cản ở sau lưng, thì binh lính không thể chạy trốn dễ dàng được. Ðã nhiều lần người ta nghe các vị chỉ huy quở trách quân lính của họ là khiếp nhược và rối loạn ngay khi vừa đụng độ. Người ta có thể nghe được cuộc đối thoại của họ rõ ràng vì họ đóng quân trên ngọn đồi Kim Sơn rất gần nhà thờ. Khi hàng rào, thành lũy của họ đã làm xong, họ lại tăng cường thêm nhiều trại quân, điếm canh, dọc theo tuyến lũy. Sự việc đó không làm cho giáo dân lo lắng mấy, nhưng vào chiều ngày thứ 6 (6/9), khi thấy quân Văn Thân mang rất nhiều bó rơm rạ đến chất trên bãi cát, giữa hai lằn ranh phòng thủ, thì giáo dân mới thấy lo ngại. Dọc theo lũy tre phía Bắc giáo xứ, từ đồi Kim Sơn đến cồn đất dưới chân hòn Non Trược, được phủ đầy rơm rạ. Họ có ý muốn đốt lũy tre bao bọc giáo xứ. Thật là nguy hiểm, cần phải phá hủy số rơm rạ này và không cho chúng đưa rơm rạ đến gần lũy tre phòng thủ của giáo xứ. Do đó, giáo xứ đã quyết định một trận tử chiến vào ngày mai (7/9), và mọi người đã chuẩn bị sẵn sàng.

Ngày 7 tháng 9, từ sáng sớm, sau khi đã cầu xin Mẹ Maria giúp đỡ và được Cha xứ khích lệ tinh thần, giáo dân tiến ra cổng phía Bắc, và ở đó, giáo mác cầm tay, họ chờ lệnh tấn công. Khi cánh cửa vừa mở ra, họ đồng loạt xông vào quân Văn Thân với một sự dũng mãnh vô song, đồng thời reo hò chiến đấu. Quân Văn Thân lập tức chạy đến để đẩy những bó rơm rạ đến sát lũy tre. Chỉ huy của họ là cậu Thiên (có lẽ là Ông Ích Ðường), con trai tướng Ông Ích Khiêm (Ông Ích Khiêm đã chống giữ Thuận An với tướng Courbet), quá khiếp sợ trước sự gan dạ của giáo dân, nên đã vượt qua tường rào của chúng để tháo chạy một cách xấu hổ. Và cũng vì ông ta sợ giáo dân đuổi theo, nên sau khi qua khỏi tường rào, ông liền đóng sập cửa lại, bỏ mặc cho số phận của quân lính ông. Quân Văn Thân bị vướng tường rào phòng thủ của chính họ, nên không thể tháo chạy được, đã bị giáo dân đâm chết rất nhiều. Tiếp đó, giáo dân tiến lên phá hủy rào giậu, doanh trại, điếm canh và thu tất cả chiến lợi phẩm ở trong các doanh trại. Ðội quân dự bị phụ nữ (đội 8) được nổi tiếng trong ngày chiến thắng vẻ vang này. Phía giáo dân chỉ có vài người bị thương, còn phía Văn Thân, người ta không biết chính xác là có bao nhiêu người chết và bị thương vì họ đã mang rất nhiều thương binh tử sĩ ra khỏi chiến trường, đến nỗi có một toán viện binh từ phía Bắc kéo đến, nhưng thấy khiêng thương binh và tử sĩ về quá nhiều, nên họ khiếp sợ mà không dám đến tiếp cứu nữa. Riêng về xác chết bỏ lại chiến trường là 36 xác. Tất cả rào giậu, rơm rạ, doanh trại đều bị giáo dân phóng hỏa đốt sạch, khói lửa bốc cao, khiến cho nhiều người tin rằng Trà Kiệu đã bị thiêu hủy. Chắc các bạn cũng có thể cảm nhận được nỗi vui mừng to lớn của giáo dân Trà Kiệu, và với tâm tình sốt sắng, họ vội vàng đến tạ ơn Ðức Mẹ về chiến thắng vẻ vang của mình như thế nào rồi.

Hôm sau, ngày 8/9, Lễ Sinh Nhật Ðức Mẹ, lại là một ngày khủng khiếp nữa. Thánh lễ sáng vừa xong thì được tin quân Văn Thân tấn công vào hướng Nam. Họ kéo đến rất đông, tràn ngập cả cánh đồng và lũy Chiêm thành, nơi giáp ranh của giáo xứ. Về phía này cũng như ở phía Ðông, cố Nhơn bắt phải bỏ nhiều khu vườn nhà giáo dân, để khỏi phải phòng thủ một phạm vi quá rộng lớn. Các điểm phòng thủ ở phía này cũng rất yếu ớt, không như ở phía Bắc, có lũy tre kín đáo, mà chỉ có những rào giậu sơ sài có thể vượt qua một cách dễ dàng. Tuy nhiên quân Văn Thân ít tấn công hướng này, có lẽ vì khi tháo chạy thì rất vất vả nguy hiểm. Ở phía Bắc thì không có gì cản trở sự tháo chạy của họ, trong khi đó ở phía Nam có những cánh đồng lúa sắp chín, muốn chạy qua được đó không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng cuộc tấn công hôm nay rất ác liệt, đến nỗi giáo dân không thể chống cự được ngay trận đụng độ đầu tiên. Ðơn vị trách nhiệm phòng thủ phía Nam phải bỏ lần từng mảnh vườn, từng mảnh vườn. Quân Văn Thân đã ồ ạt tiến đến điểm phòng thủ Phước Viện (Nữ tu viện Mến Thánh Giá), và họ đông không đếm xuể. Cùng lúc đó, từ hai ngọn đồi Kim Sơn và Bửu Châu, quân Văn Thân đã không ngừng bắn xối xả vào giáo xứ, đạn rơi khắp nơi. Cố Nhơn chạy ngược chạy xuôi để tìm người cứu viện cho phía Nam. Cuối cùng đội quân dự bị (phụ nữ) "danh tiếng" cũng phải chuẩn bị hàng ngũ, tiến đến khu vực ở giữa Phước Viện và Cô nhi viện để giáp mặt với quân thù. Cùng lúc đó, một toán khác âm thầm tiến qua phía tay phải, sát bờ suối. Quân Văn Thân giao chiến rất mãnh liệt, nhưng khi giáo dân đồng loạt tấn công mặt trước và hai bên hông, thì chúng chùn chân và rồi tháo chạy tán loạn kể cả những người gọi là gan dạ nhất. Ngày hôm đó đội quân phụ nữ lại rất xuất sắc và hiển hách, vì họ đã thực sự cứu nguy cho giáo xứ. Các bà nói: "Không có chúng tôi, tất cả thế là xong, vì chúng tràn đến quá đông, mà các ông không sao chống cự nổi". Còn quân Văn Thân trận đó thiệt hại rất lớn, lớn hơn số liệu người ta ghi lúc ban đầu, bởi vì một tháng sau đó, khi giáo dân đi gặt lúa, họ gặp 14 xác chết còn bỏ lại trong cánh đồng sát chân thành Chiêm. Quân Văn Thân hôm đó rất tức giận vì không thể nào tấn công vào "sào huyệt" của Giáo xứ, nên từ trên đồi cao Kim Sơn họ chưởi bới và văng xuống đủ lời nguyền rủa. Và cũng không ai ngăn cản họ tự tố cáo nhau, tự chê trách mình không can đảm bằng những người phụ nữ Công giáo. Nhưng thật bất hạnh cho các tín hữu đáng thương, vì chưa có thể chấm dứt được những khốn đốn của họ. Họ đã làm nên những chiến công phi thường, nhưng họ không sao đạt được sự giải cứu. Sau mỗi trận đánh, nỗi kinh hoàng mà quân Văn Thân gieo rắc lập tức lại tràn ngập hồn họ. Vòng vây mà họ đã bẻ gãy thì trong chốc lát lại được lập lại. Tuy nhiên giáo dân cũng biết rõ rằng: sự hăng say của Văn thân bắt đầu giảm sút, nên cũng vững tin đôi chút. Giáo dân đã nghe chúng nguyền rủa lẫn nhau, phàn nàn chỉ huy của chúng, kêu khóc và thất vọng, nhất là họ tranh cãi nhau về việc phân chia lương thực không được công bằng. Vì có những vị chỉ huy khác nhau, nên họ cũng chia thành nhiều nhóm riêng rẽ. Nếu có nhóm nào bắt được con bò hay con trâu, thì họ làm tiệc tùng cho riêng nhóm của mình, trong lúc đó những nhóm khác vẫn phải chịu khổ cực, thiếu thốn, vì thế mà họ lại ghen tị, nguyền rủa nhau. Nước uống cũng thiếu trầm trọng, không bao giờ và không thể nào mang đến cho đầy đủ. Vì vậy, ngay với chính họ cũng đã bất mãn với nhau và rất dễ đưa đến hành động chống đối. Trong những trận giao tranh, thay vì chiến thắng họ đã chiến bại. Ðại bác, súng hỏa mai, cũng không giúp gì nhiều mà có khi còn gây nguy hại nữa. Trong lúc này, họ mới nghĩ rằng: Với những khẩu "Thần công" ở thủ phủ Quảng Nam mới chiến thắng Trà Kiệu một cách mau lẹ được; mà ngay từ khi bắt đầu tấn công họ đã không kéo đến, vì theo họ thì không cần phải dùng đến thần công cũng đè bẹp được Trà Kiệu ngay. Vả lại, kéo thần công lên đến Trà Kiệu cũng rất gian nan, vất vả. Vì thế mà bây giờ họ hối tiếc và quyết định kéo thần công về.

Ngày 9/9 là ngày họ dành cho việc đi kéo thần công về và đặt chúng trên hai đỉnh đồi.

Sang ngày 10/9 thì họ bắt đầu nã thần công thật khủng khiếp, vang dội cả tỉnh. Ở Phú Thượng, cách Trà Kiệu 40km, giáo dân nghe nổ rất kinh hoàng. Chính cố Thiên cũng tin chắc rằng "đồng nghiệp" của ngài và giáo dân Trà Kiệu đang gánh chịu số phận thương đau. Tâm hồn ưu tư sầu thảm, Cha leo lên núi Phú Thượng để xem thử phía Trà Kiệu có bốc cháy không. Cha biết rằng số phận Trà Kiệu được gắn liền vào số phận của Phú Thượng. Mặc dù lần đầu Phú Thượng kháng cự được, lần hai cũng có cơ may để kháng cự lại, nhưng một khi Trà Kiệu bị tàn sát thì Phú Thượng rồi ra cũng bị tàn sát như vậy. Từ trên đỉnh cao, Cha không thấy lửa và cũng không thấy khói nhưng tiếng súng thần công thì rất khủng khiếp, đến nỗi Cha không thể nào tin được Trà Kiệu có thể chống cự nổi. Khắp nơi, kể cả Ðà Nẵng nữa, khi nghe những tiếng nổ khủng khiếp đó, người ta bàn tán xôn xao là Trà Kiệu đã bị bình địa. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, Trà Kiệu không hề hấn gì, vẫn đứng vững và kháng cự anh dũng lại sự điên cuồng của quân Văn Thân.

Thần công của chúng được đặt trên hai ngọn đồi (Kim Sơn và Bửu Châu) và chủ yếu là bắn vào nhà thờ nhưng đạn lại đi từ đồi này qua đồi kia giết hại chính quân của họ. Ðúng ra thì với số đạn mà người ta đã bắn có thể dằm nát cả khu nhà thờ ra, nhưng thật lạ lùng, nhà thờ không hề hấn gì cả. Ngoài nhà thờ ra họ còn nhắm bắn phá nhà nguyện của Phước viện và nhà Cha xứ. Quân Văn Thân đã biết rõ Cha xứ thường ngồi tại một chiếc bàn đặt ngay giữa nhà, và chính nơi đây đã bị 5 quả đạn đại bác, từ đầu này đến đầu kia. Ngọn đèn treo ở phía trên bàn của Ngài bị bể tan, những bức điêu khắc và tranh ảnh treo ở vách ngăn ở phía sau bị phá hủy, rách nát. Có lúc ở trên đồi, quân Văn Thân đã reo hò chiến thắng. Chúng kêu lên: "Tây dương đã chết, tây dương đã bị giết". Nghe thế Cha xứ bước ra ngoài mái hiên và nói lên với chúng: "Không dễ gì giết được tôi, các ông xuống đây đọ sức với tôi thì sẽ biết". Cha nói vừa dứt lời thì một quả đạn bay vèo đâm vào cây cột sát bên cạnh Ngài. Biết rằng Cha xứ là linh hồn của cuộc chống cự, nên Văn Thân tìm mọi cách, với bất cứ giá nào, cũng phải giết cho được Cha xứ. Một phần thưởng rất lớn, từ 20 đến 30 nén bạc (tương đương 1800 đến 2000 quan Pháp) cho ai bắt sống hoặc giết được ngài. Ba lần Ngài bị bắt hụt. Ban đêm quân Văn Thân lợi dụng bóng tối thâm nhập vào giáo xứ, và len lỏi đến gần nhà Cha. Khi gặp ngài chúng cố bắt sống, nhưng nhờ sự nhiệt tình của giáo dân nên Ngài lại được cứu thoát. Tất cả những tình tiết cảm động này, bây giờ Cha Bruyère (cố Nhơn) kể lại với một giọng điệu vui vui, nhưng chắc lúc đó Ngài không thể cười được.

Sau những trận đại pháo, Ngài lại rời khỏi nhà xứ để đi chăm sóc các bệnh nhân và tìm chỗ nghỉ ngơi cho những người bị thương đang nằm ở nhà thờ. Và cũng rất may ngày hôm đó không có trận giao tranh nào cả. Quân Văn Thân đang tập trung quan sát thành quả những trận đại pháo vừa qua, nhưng họ sững sờ, khi trông thấy mọi nơi đều y nguyên, mặc dù họ đã dốc hết sức, nhưng tất cả hãy còn đứng vững. Trong các cổ đại pháo có một khẩu đường kính rất lớn, và được đặt rất gần, khoảng 100 mét, nhưng chỉ bắn trúng nhà thờ có một quả và trúng vào cái hoa thị nhỏ ở phía sau bàn thờ, còn những quả đạn khác lại đi quá cao. Nhưng đó không phải là vì nhắm không chính xác, xạ thủ là một cựu quan chức rất quen sử dụng đại bác. Hắn ta đã thú nhận sau đó rằng: muốn nhắm một bà đẹp mặc đồ trắng đứng trên nóc nhà thờ, mà tất cả đều đi quá cao, trừ có 1 quả.

Suốt ngày hôm đó và cả ngày hôm sau, quân Văn Thân trên đồi Kim Sơn không ngừng kêu lên: "Thật lạ lùng, có một người đàn bà luôn đứng trên nóc nhà thờ, bà rất đẹp mà ta không sao bắn trúng".

Phải chăng đó là một phép lạ tỏ tường của Ðức Mẹ, phải chăng Ðức Mẹ đã che chở cho mọi người đang ẩn náu trong thánh đường được dâng hiến cho Trái tim Vẹn sạch của Mẹ. Tôi không dám loan báo một sự việc quan trọng như thế, mà tôi chỉ xác tín rằng: quân Văn Thân trong suốt hai ngày liền, họ không ngừng lặp đi lặp lại rằng: Họ thấy một người đàn bà đứng trên nóc nhà thờ. Khi thì họ nói với sự kính trọng và gọi bà là MỘT BÀ ÐẸP MẶC ÐỒ TRẮNG, khi thì họ tức giận, nguyền rủa, văng tục, vì không sao bắn trúng bà. Giáo dân khi nghe họ nói thế cũng cố nhìn lên nóc nhà thờ, cả Cha xứ nữa, nhưng không ai được thấy. Vả lại, tại đây không phải chỉ có một dấu lạ như thế, mà người ta cũng đã nghe đến nhiều dấu lạ tương tự. Tôi muốn nói đến "đạo quân trẻ em", một đạo quân mặc áo trắng hay đỏ, tiến đến như 1 đạo quân hùng dũng, chống lại với Văn Thân. Ðã hơn một lần, quân Văn Thân kêu lên rằng: Họ không chỉ đánh với người Công giáo, mà còn đánh với hàng ngàn trẻ em đến tiếp ứng khi giáo dân xuất trận. Các em này đến từ trời cao và xuống dọc theo lũy tre khi người Công giáo xuất hiện. Chắc chắn là không phải tất cả những lần xuất trận đều có sự việc lạ lùng đó, mà giáo dân Trà Kiệu chỉ nghe Văn Thân nói về điều đó trong 2 hay 3 lần đụng độ mà thôi. Cho dù đó có phải là phép lạ hay không, nhưng đối với đồng đạo đáng thương của chúng ta, thì đó là dấu chỉ lòng xót thương của Thiên Chúa đối với họ. Và chính Mẹ Maria bằng cách này hay cách khác, cũng đã thể hiện lòng từ ái chở che của Mẹ. Và chúng ta tin chắc rằng, nếu Chúa cho phép những cơn thử thách ghê gớm như thế, thì Ngài cũng có quyền không cho phép tận diệt con cái của Ngài. Rồi đây sóng gió sẽ nhường lại cho an bình, sau những ngày đau thương sầu thảm, tôi hy vọng giờ phút vỗ về mừng vui cũng lại được vang lên.

Nhưng sao lâu quá, lạy Chúa, xin Chúa hãy mau đến cứu giúp chúng con.

Ngày 11 tháng 9 lại còn khủng khiếp hơn vì phải giao chiến dưới hỏa lực đại pháo bắn trực xạ vào giáo xứ. Trong lúc đó quân Văn Thân tập trung tại địa điểm phòng thủ "Phước viện", gần lũy tre rậm và nổi lửa lên đốt. Cuộc giao tranh diễn ra ở trong con suối nằm giữa giáo xứ và đồi Kim Sơn, Lực lượng giáo dân phải lùi bước ngay trận đụng độ đầu tiên, và liền đó, vị trí phòng thủ phía nhà Phước viện bị Văn Thân tràn ngập, nhưng nhờ các nữ tu đã hành động hết sức phi thường, các Soeurs vừa xông vào giập tắt lửa, vừa rượt đuổi quân địch. Một Soeur bị một quả đạn tử thương. Vào giây phút nguy kịch đó thì cố Nhơn vừa đến, nhờ sự hiện diện cũng như những lời động viên khích lệ của Ngài mà giáo dân lấy lại can đảm, rồi đồng loạt phóng mình xuống giòng suối, quân Văn Thân thấy thế, sợ quá, tháo chạy. Trong trận này có một tên Văn Thân nói là nhân danh TRỜI truyền lệnh cho người Công giáo ngừng chiến đầu và phải đầu hàng. Nó nói: "Hãy đầu hàng, đó là ý muốn của trời, khốn cho các ngươi, nếu các ngươi còn kháng cự". Nó nói vừa dứt, có 1 giáo dân phóng về phía nó và đâm cho nó 1 giáo, đang khi nó cố trèo lên bờ suối phía bên kia. Nó bị giết cùng với 4 tên nữa cũng đang bị vướng mắc trong các bụi tre. Xác của chúng bỏ lại đó cho đến ngày chấm dứt cuộc chiến, làm hôi thúi cả một vùng.

Tuy thắng trận, nhưng nỗi lo lắng lớn nhất của cố Nhơn là sợ thần công ở đồi Kim Sơn bắn sập thánh đường. Nếu thánh đường bị sụp đổ thì điều đó sẽ mang lại một hậu quả thật khủng khiếp về mặt tâm lý: giáo dân sẽ mất tinh thần, mất can đảm, và như thế là hết, tất cả sẽ bị hủy diệt. Thánh đường còn thì niềm tin còn. Thánh đường có 8 cây cột bằng gạch chống đỡ, nếu một quả đạn làm gãy mất một cột lập tức nhà thờ sẽ bị đổ nhào ngay. Vì thế mà Cha mới táo bạo quyết định tiến chiếm đồi Kim Sơn. Cha muốn ban lệnh tấn công ngay. Các vị chỉ huy đều im lặng, vì họ sợ khó mà thực hiện được. Ðây là khu tổng hành dinh của quân Văn Thân lại ở trên một quả đồi cao, bên dưới có rào giậu kiên cố. Một lúc sau, họ mới xin Cha đợi đến sáng ngày mai, trước khi mặt trời mọc, quân Văn Thân sẽ lơ là canh gác, chúng ta bất ngờ leo lên mở đợt tấn công, như vậy mới có cơ may thành công được. Cha nghe theo ý kiến tuyệt vời đó và quyết định sẽ tấn công vào lúc 3 giờ 30 sáng hôm sau.

Suốt đêm đó tâm hồn Cha nặng trĩu âu lo, Cha luôn luôn lắng nghe động tĩnh và hồi hộp chờ đợi giờ đã định. Vào khoảng nửa đêm, từ phía bên kia bờ suối, một giọng nói khàn khàn gọi các giáo dân. Cha cùng với một vài người nữa đến sát bên bờ suối để nghe cho rõ hơn, và Cha đã nghe rõ ràng rằng: "Hỡi giáo dân, hãy qua bên bờ suối này mà lấy đại bác của chúng tôi, để chúng tôi không còn bị buộc phải giữ chúng nữa. Chúng tôi quá mệt mỏi với trận chiến này rồi, và chúng tôi không muốn gì khác hơn là quay về nhà. Nếu các ông không qua lấy, chúng tôi sẽ ném chúng xuống suối".

Một giờ sau người ta nghe một tiếng động mạnh, giống như một vật gì nặng rơi xuống nước. Cái gì vậy ? Không ai biết. Nhưng khẩu đại bác đó cũng không thấy ở dưới suối và cũng không có tại chỗ họ bắn hôm qua.

Khoảng 3 giờ cố Nhơn đi báo thức các chiến sĩ để chuẩn bị tấn công. Khi họ bắt đầu vượt qua con suối thì Cha quay trở lại nhà xứ và tìm một nơi để có thể quan sát họ trèo lên đồi. Bóng đêm còn bao phủ cả quả đồi nên không thể thấy gì cả. Cha chỉ biết chờ đợi... Cha quá sốt ruột, không biết họ đang làm gì, đến đâu rồi, và tại sao lâu vậy, vì lẽ ra giờ này họ phải phá hủy tường rào của chúng. Trong khi đó thì các chiến sĩ ta không dám chặt cây quá mạnh vì sợ đánh thức chúng nên chặt nhè nhẹ. Khi họ thực hiện xong thì trời vừa sáng và quân Văn Thân đã bắt đầu xuất hiện rõ trên mỏm đồi. Tất cả chúng đang cột búi tóc và nhìn về hướng cố Nhơn, vì Cha đang đứng ở nơi trống trải nhất, nhằm mục đích lôi kéo sự chú ý của chúng, để cho các chiến sĩ ta trèo lên phía sau lưng họ. Nhưng sau đó thì quân Văn Thân ở phía bên kia đồi phát hiện được và kêu lên khiến chúng quay lại nhìn. Lúc này thì các chiến sĩ của ta cũng vừa kịp đến nơi và lập tức hô xung phong tấn công. Các chiến sĩ ta đã giết được vài tên, số còn lại tháo chạy. Ta hoàn toàn chiếm cứ đồi Kim Sơn và thu được 4 khẩu đại bác, 5 súng nhỏ và chục súng trường. Sau đó ta châm lửa đốt doanh trại của chúng.

Ngày 12 tháng 9 là một ngày rất vui mừng, niềm tin được tăng lên, nhưng chưa phải là hết. Thật vậy, quân Văn Thân bị mất hồn, nên từ đồi Bửu Châu (Non Trọc), cả ngày hôm đó lẫn ngày hôm sau họ không bắn lấy một phát đạn đại bác, tuy nhiên họ vẫn bao vây giáo xứ cẩn mật. Nếu họ không tìm cách lấy lại đồi Kim Sơn mà họ đã để mất, thì họ lại không ngừng canh gác ở phía đồi bên kia (Non Trượt) để ngăn chận không cho giáo dân liên lạc với bên ngoài. Mục đích của họ là giam đói cho đến cùng, vì nếu không chiến thắng bằng vũ khí thì ít ra cũng chiến thắng bằng đói khát. Và quả như thế, giáo xứ bắt đầu thiếu lương thực, ngay cả lương thực của cố Nhơn cũng hầu như đã cạn, vì Ngài phải nuôi một đoàn giáo dân đến lánh nạn ở đó mà họ chả có mang được gì đến. Thật nguy khó, người ta chỉ còn trông cậy vào Chúa, người ta hy vọng vào Ðức Maria là Ðấng không bỏ họ trong những ngày chịu đựng lâu dài này. Khắp nơi trong tỉnh phải khiếp vía vì những loạt đại bác khủng khiếp trong hai ngày trước, họ tin rằng Trà Kiệu thế là xong. Quân Văn Thân hỉ hả loan tin thắng trận và ca hát tưng bừng. Chúng đe dọa sẽ kéo ra Ðà Nẵng. Ðể che đậy sự thất bại, chúng tổ chức tấn công Phú Thượng, nhưng cố Thiên đã chống cự mãnh liệt, khiến chúng lại kéo về Trà Kiệu. Lần này đứng đầu là một cựu đô đốc, ông Chưởng Thủy Tý. Chúng nhờ đến cái thiên tài quân sự của ông để tận diệt những "thằng Công giáo quỷ quái" một lần cuối cho xong.

Vì thế vào ngày 14 tháng 9, người ta thấy chúng tiến đến phía cánh Nam đông vô số. Từ sáng sớm, cố Nhơn đã lên đồi Kim Sơn để quan sát các hoạt động của quân Văn Thân. Ngài không khỏi sửng sốt khi thấy tất cả cánh đồng phía Nam tràn ngập những đạo quân đang tiến về phía giáo xứ, trong khi vừa hò hét, vừa đánh trống. Ngài vội vã leo xuống để ban lệnh chuẩn bị một trận phản công. Ngài vừa về đến giữa đội quân của mình thì quân Văn Thân đã chiếm dãy thành Chiêm và bắt đầu dựng nên một hàng rào chuẩn bị cho trận chiến. Họ rất vội vàng, và một hàng rào đã được dựng lên một cách mau lẹ lạ thường. Cố Nhơn thấy rất nguy hiểm nếu để cho họ xây dựng và củng cố vị trí chiến đấu ngay trên thành Chiêm này, vì đây là cạnh sườn của giáo xứ. Ngài quyết định phải tấn công ngay. Về phía Ðông, đội quân thứ 3 sẽ tiến lên đầu dãy thành Chiêm, nơi mà chúng chưa tràn tới, để từ đó có thể dồn lui quân Văn Thân, hoặc đánh tan chúng ở cánh đồng phía bên kia. Một phần của đội quân dự bị (đội 8) được tăng cường đến giúp đội 3. Trong khi đó, một phần quân dự bị còn lại giúp cho đội 1 tấn công mặt trước. Người ta tin chắc là sắp xảy ra một trận giao tranh ác liệt, và ai cũng chuẩn bị chiến đấu một cách dũng cảm. Nhưng thật ngạc nhiên, quân Văn Thân bắt đầu quay lui trước khi các chiến sĩ của ta tiến đến. Ông Chưởng Thủy Tý kêu ầm lên và rất vất vả để ngăn chận chúng lại, nhưng chúng không dám đứng lại và bỏ mặc một mình ông, với khoảng 10 người bảo vệ cho ông. Khi thấy giáo dân tiến đến gần, chính ông cũng phải bỏ chạy, nhưng quá muộn. Hai thanh niên Trà Kiệu rượt theo, toán cận vệ của ông cũng bỏ ông mà chạy thoát thân. Khi thấy bị đuổi kịp thì ông quay lại xin hai thanh niên đó tha cho được sống. Hai thanh niên bảo với ông rằng: "Nếu mày muốn sống chắc mày đã không đem sự chết đến cho chúng tao, ở đây không có sự dung tha". Nói rồi họ đâm ông, lấy thanh kiếm và cắt đầu ông mang về. Chắc người ta sẽ nghĩ rằng: điều đó thật hung ác, không theo đúng quy luật tù binh (chiến trận). Ôi những người giáo hữu đáng thương, đối với họ, thì người ta có giữ luật lệ gì đâu.Dù trẻ hay già, đàn ông hay đàn bà, bất cứ ở đâu trong tỉnh, tất cả đều bị người ta bắt và dẫn đến Trà Kiệu để treo cổ trước sự chứng kiến của cha mẹ họ. Dù đó là hung ác, nhưng tôi không muốn bỏ qua đoạn này, vì muốn kể lại tất cả mọi việc.

Ngày hôm đó, lần đầu tiên người ta thấy một con voi xuất hiện trong đội quân Văn Thân. Giáo dân chưa biết phải làm gì để đối phó với loại tấn công mới này, nên hết sức lo lắng, nhất là đối với phụ nữ họ do dự không dám tham chiến. Bấy giờ có một thanh niên xung phong đi đuổi nó. Cậu ta nói: "Cho tôi một bó đuốc cháy, và các anh sẽ thấy nó quay lưng lập tức". Ðúng vậy, với bó đuốc cháy rực, cậu ta tấn công, voi run sợ bỏ chạy dù cho thằng nài cố mà giữ nó lại. Cậu ta đuổi theo đâm vào sườn nó, nhưng không đủ sức để đâm thủng được. Thằng nài ngả xuống lủi trốn vào bụi rậm và rồi vắt giò mà chạy trối chết. Từ đó người ta không còn lo ngại voi nữa, mặc dù trong hai trận sau đó, họ cũng có đưa voi tham chiến, nhưng không thể chiến đấu với giáo dân được.

Ngày 15/9 không có trận đánh nào, quân Văn Thân tập trung củng cố lực lượng ở phía Ðông chung quanh đồi Non Trọc. Dưới chân đồi Non Trọc, ở phía bên kia thuộc phần đất của dân bên lương, có một nơi đóng quân chính của quân Văn Thân, đó chính là Ðình làng Ngũ xã, mái lợp ngói, tường xây gạch, xinh xinh... Ở đó còn có 2 hay 3 ngôi chùa, 1 tăng viện, cũng đều xây bằng gạch, lợp ngói. Khi bị rượt đuổi khỏi đồi Kim Sơn, quân Văn Thân đã chọn nơi này làm bản doanh chính của họ và họ bắt đầu củng cố để có nơi ẩn núp khi bị đột kích bất ngờ. Súng thần công của họ đặt trên đồi Non Trọc để bắn vào giáo xứ, nhưng đều thất bại, nên từ đó họ ít bắn vào nhà thờ, nhà cửa, mà lại nhắm bắn vào người. Ðại bác bắn đạn ria (sắt vụn), mỗi phát gồm có từ 80 đến 100 viên đạn ria, được bọc trong một cái giỏ mây và khi rơi xuống sẽ tung tóe ra chung quanh. Một lần cố Nhơn núp sau một bụi tre, thì bị trọn một quả đạn ria này, giống như một cơn mưa đạn. Thoạt đầu Cha nghĩ là chết thôi và theo bản năng tự nhiên, Cha đưa tay rờ khắp thân thể và Cha không thể tin là mình còn sống và không hề hấn gì.

Ôi các giáo hữu đáng thương, họ thoát được cuộc bao vây và tấn công này và không bị giết, chắc chắn đó là họ được Ðức Mẹ Ðồng Trinh che chở cách riêng. Nhưng chúng ta phải tiếp tục theo dõi, vì chúng ta chưa biết được kết quả cuối cùng của cuộc bao vây tấn công này.

Ngày 16/9 có 3 trận giao chiến, hai trận diễn ra ở bãi cát phía Bắc. Quân Văn Thân thích chọn phía này làm bãi chiến trường, vì ở đây không có gì cản trở sự tháo chạy của họ. Trận thứ 3 thì ở phía Ðông trước điểm phòng thủ do đội 1 phụ trách. Quân Văn Thân rất căm ghét đội 1 này, vì đã làm nhục chúng bằng nhiều trận chiến thắng oanh liệt. Ông Phổ chỉ huy trưởng đội 1, mà chúng ta đã biết, là người đã chống lại sự khiếp đảm của giáo dân trong những ngày đầu, ông biết khích lệ sự gan dạ can đảm của lính ông, mà nhiều khi đi đến chỗ dám liều lĩnh. Ðội 1 là cột trụ chính của giáo xứ và cũng là đội làm cho quân Văn Thân sợ hãi nhất. Tuy nhiên họ cũng không bỏ lỡ một cơ hội nào để đạt đến chiến thắng. Họ muốn đốt lũy tre bao bọc (phía Ðông) nên đã mang rất nhiều rơm rạ đến đặt gần đó và đưa đại bác, súng ống đến mai phục ở phía sau. Voi cũng được điều đến và lần này do một ông "Tú" quản tượng. Lính ông Phổ đã từng trải qua nhiều phen giao chiến, nên không hề e ngại chút nào, mà trái lại họ còn mỉm cười nữa là khác. Một người lính của ông Phổ trèo lên trên bụi tre và cất cao giọng chọc tức chúng nó. Cậu ta kêu to: "Ðội trưởng ơi chúng nó đông lắm, nhưng không đáng sợ, chúng có những chiếc móng tay rất dài và tướng mạo giống như những thằng hút thuốc phiện". (Ðó là do tính chất phô trương của nhà nho, thích để móng tay dài, đôi khi 7, 8 centimét). Một phát súng trả lời cho cậu ta, nhưng may mắn không trúng. Cậu ta vội vã tụt xuống. Cuộc chiến không kéo dài. Giáo dân lao mình vào quân Văn Thân như những con sư tử và rượt đuổi chúng chạy rất xa, thu nhiều súng đại bác và súng nhỏ. Khi thấy quân Văn Thân mang súng chạy, tức thì các chiến sĩ ta hô hoán lên rằng: "Nhanh lên, nhanh lên, đâm cái thằng mang súng đó". Nghe thế, quân Văn Thân tưởng giáo dân đã đến sát một bên, nên vội tháo súng vất lại, để chạy thoát thân.

Ngày 17/9, quân Văn Thân cũng bao vây chung quanh như thường lệ, nhưng họ không áp sát để gây chiến.

Ngày 18/9 chỉ có một trận giao tranh và kéo dài trong vài phút. Trận này người ta thấy quân Văn Thân có tài sáng kiến. Ðiều mà chúng lo sợ nhất là sự gan dạ của giáo dân, cứ cắm đầu xông thẳng vào chúng, buộc chúng phải thụt lui ngay khi mới đụng độ và trận nào cũng thế. Vì vậy họ thấy cần phải tìm cách ngăn chận giáo dân lại. Họ nghĩ có thể lợi dụng cái đầu tóc dài (ai cũng để tóc) hoặc quần áo, để tìm cách buộc giáo dân bất động. Nghĩ thế nên họ đã tạo ra những bó củi gai (Chà chươm), một đầu nhọn và có mấu, rồi đem buộc chặt vào đầu những cây sào tre và khi giáo dân tiến đến gần, thì họ sẽ đưa những bó củi này lên, treo lơ lửng trên đầu giáo dân buộc giáo dân phải chậm lại và rồi đứng yên, tha hồ mà đâm chém. Phải nhận rằng đây không phải là một sáng kiến tồi, nhưng sáng kiến đó có giúp được gì cho các "học trò Khổng Tử" không, tôi không dám quả quyết. Khi quân Văn Thân tiến đến gần thì giáo dân thấy họ mang những bó gai nhọn hoắt, cột vào một đầu sào tre giống như họ mang cờ lịnh vậy. Lúc đầu giáo dân quá lo lắng, nhưng sau khi đã quan sát kỹ và khám phá ra được cái mưu mẹo của họ, cố Nhơn đã bảo với giáo dân: "Các con đừng sợ, khi những bó gai đó rơi xuống trên ruộng lúa, thì không sao kéo lên lại được, vì thế việc đầu tiên là chúng ta phải lanh lẹ tìm cách né tránh những bó gai đó, khi chúng thả xuống trên đầu mình". Nhờ đó mà giáo dân biết đề phòng và tìm cách né tránh, rồi phản công ngay, làm quân Văn Thân phải thua chạy.

Ngày 19/9 và 20/9 không có trận giao chiến nào cả. Hàng ngũ Văn Thân dần dần bị tan rã, phần lớn là do đào ngũ và bị tổn thất ở chiến trường. Do vậy chúng phải đi tìm thêm viện binh. Các làng trong tỉnh tùy theo điều kiện và khả năng, phải cung cấp thêm lực lượng, thêm tráng đinh. Nhưng sự cuồng nhiệt của những ngày đầu đã giảm xuống, nghiệp binh bị không mấy thích thú đối với những nông dân nghèo khổ. Họ chỉ thích an bình và dĩ nhiên họ cũng chả thích gì khi phải đi giao chiến với giáo dân Trà Kiệu, nên không ai đi. Vì thế mà quân Văn Thân mới quyết định mở cửa các nhà tù và dẫn tất cả tù nhân đến Trà Kiệu (vai vẫn mang gông và tay vẫn bị trói). Theo họ nghĩ, thì những tù nhân này không còn sợ gì chết chóc. Họ đã lầm, chính những tù nhân này không muốn giao tranh, bằng thích được tự do. Vì thế khi có dịp thuận lợi là họ trốn thoát ngay. Văn Thân bắt họ phải cạo trọc đầu và được canh giữ rất nghiêm nhặt. Ban ngày, quân Văn Thân đưa họ lên ngọn đồi Non Trọc để canh gác, còn ban đêm lại mang về giam ở trại. Nhưng rồi ngày này qua ngày khác, người giáo dân đáng thương vẫn cảm thấy không thể chấm dứt được cơn hoạn nạn của họ. Họ hy vọng Ðà Nẵng có thể đến tiếp cứu họ. Nhưng than ôi, đã 21 ngày bị bao vây tấn công mà không thấy một sự tiếp cứu nào cả. Chính họ đã bị bỏ mặc cho số phận đau thương này. Thời gian lại quá cấp bách, vì cơn đói còn khủng khiếp hơn cả Văn Thân nữa. Cố Nhơn đã đi xem tất cả những kho lúa gia đình, cả những gia đình giàu nhất, Ngài thấy không còn một hột nào, kể cả lúa giống mà họ chuẩn bị cho mùa gieo cấy sắp đến. Tất cả đã được sung vào của chung. Số lương thực hiện còn lại cũng đủ sống được 2 hoặc 3 ngày thôi. Các giáo dân đáng thương không còn cách nào khác hơn là phải phá vòng vây, hoặc chờ chết đói. Mà chờ thêm nữa cũng chả ích gì, trái lại rất nguy hiểm, vì bụng đói thì ai còn can đảm để giao chiến. Vì thế giáo dân buộc lòng phải quyết định tấn công và rượt đuổi quân thù không cho chúng nghỉ ngơi. Ngày mai 21/9 họ sẽ bắt đầu thử tiến chiếm hòn Non Trược.

Ngày 21/9, giáo dân Trà Kiệu chuẩn bị tấn công bằng cách cầu xin sự trợ giúp của Thiên Chúa và sự chở che của Mẹ Ðồng Trinh. Cuộc tấn công này rất khó khăn, nếu như không bức thiết thì không ai dại gì mà tấn công, vì đây là một cuộc tấn công đẩy lui quân địch, không còn yếu tố bất ngờ nữa, mà là một trận giao chiến công khai. Hơn nữa, trước khi tiến đến được chân đồi Non Trược, thì phải tấn công đẩy lui quân Văn Thân để tái chiếm lại những khu vườn, mà theo lệnh của cố Nhơn, phải bỏ chạy trong những ngày đầu. Ðội 1, đội 3 và đội 4 được giao việc tổ chức tấn công và theo dự tính thì đẩy lui quân Văn Thân càng xa hướng Ðông, hướng Nam càng tốt. Quân Văn Thân không nghĩ đến một cuộc tấn công như thế, nên họ rút lui về phía sau hàng rào phòng tuyến của họ. Ðội 1 được phân công tiến về phía Nam ngọn đồi và từ đây có thể tiến ra phía Ðông ngọn đồi dễ dàng. Ðội 4 thì tiến về phía Bắc, còn đội 3 đi ở giữa, sẵn sàng chịu hỏa lực mạnh nhất. 10 bạn trẻ của đội 4 được lệnh sẵn sàng leo lên ngọn đồi Non Trược để tiêu diệt ngay những tên tù binh đang canh giữ ở đây. Họ ẩn núp sau cái miếu phía Ðông chân đồi để tránh hỏa lực của Văn Thân, rồi chờ lúc thuận lợi chạy đến nấp sau một tảng đá lớn chờ leo lên đồi. Khi phát hiện giáo dân tấn công, các vị chỉ huy Văn Thân kêu ầm lên, bảo quân lính ngăn chận giáo dân đang tiến lên. Voi được thúc ra trận, nhưng voi lại không chịu đi, mặc dù thằng nài không ngừng giáng những cú búa tạ liên tục. Và lạ thay, thay vì tiến lên thì nó lại lùi. Thằng nài kêu lên với các vị chỉ huy của nó rằng: "Voi sợ đám đông giáo dân không dám tiến lên". Rồi nó lại la lên: "Hãy nhìn kìa, đạo quân trẻ nhỏ xuống từ trên các lũy tre, chạy là tốt nhất. Người Công giáo đông quá".

Giáo dân nghe những lời đó rất rõ ràng, nhưng không thấy gì cả. Cuối cùng thì một trong 10 thanh niên đội 4 đã leo lên được trên ngọn đồi và tìm cách bắn một phát súng vào tên lính đang canh gác trên đỉnh đồi. Một trong những người chỉ huy ngã xuống, những tên còn lại vội vàng tháo chạy. Giáo dân lợi dụng thời cơ tiến lên đỉnh đồi trước sự run sợ của quân Văn Thân, và chúng đã tháo chạy xa từ 15km đến 20km mới dám ngừng lại, vì sợ người Công giáo rượt theo. Khi Trà Kiệu được giải vây thì lập tức các đình làng, chùa chiền, tu viện Phật giáo đều bị đốt cháy. Tin giáo dân Trà Kiệu chiến thắng loan đi khắp vùng, làm cho dân ngoại bắt đầu lo sợ một cuộc báo thù. Trong doanh trại Văn Thân giáo dân tìm được 3 khẩu đại bác, một vài khẩu súng nhỏ, nhiều nhất là thuốc súng và quân nhu. Khi tìm kiếm ở đây thấy rất ít lúa gạo, giáo dân mới đoán rằng: quân Văn Thân đã cất giấu lương thực ở tận cuối làng. Và không để mất thì giờ, giáo dân liền chạy đến truy tìm. Và quả đúng thế, ở đây họ tìm thấy một số lượng gạo rất lớn. Suốt ngày hôm đó giáo dân lo vận chuyển lương thực về giáo xứ. Ðến chiều, khi mọi việc đã xong xuôi, với tinh thần vui mừng hớn hở, họ kéo về tạ ơn Chúa, Ðức Mẹ, các Thiên Thần đã tham dự vào cuộc chiến giúp họ. Tâm hồn ngập tràn niềm vui khôn tả, thay vì phải chết đói, hay chết trong vòng vây của quân thù, thì bây giờ họ đã được cứu sống, đã chiến thắng hoàn toàn.

Cuộc bao vây tấn công kéo dài 21 ngày đêm, giáo xứ Trà Kiệu mất đi 15 nam nhơn và 25 người bị chết do tạc đạn bên ngoài cuộc giao chiến. Về tổn thất của quân Văn Thân thì không thể nào biết chính xác được, nhưng có thể nói mà không sợ lầm, là số tử thương lên trên 300 người.

Ngày 22/9 giáo dân tiếp tục triển khai chiến thắng của mình và đã trừng trị những tên đầu sỏ ở những làng chung quanh, những kẻ đã gây nên hận thù với giáo xứ, cũng như chúng cuồng nhiệt chi viện cho quân Văn Thân. Giáo dân không gặp sự kháng cự nào cả. Dân ngoại hoặc lập tức đầu hàng, hoặc vội vàng tháo chạy. Nhiều làng đến xin lỗi vì họ bị quân Văn Thân ép buộc phải chi viện, và họ hứa là không còn phân chia lương giáo nữa. Cố Nhơn rất khoan dung và Ngài còn đề phòng sợ giáo dân của Ngài trả thù các làng chung quanh, vì họ không tin các làng đó đã thành thật quy hàng, nên Ngài đã đưa ra nhiều quy định và sẽ có hình phạt nghiêm khắc đối với giáo dân nào vi phạm.

Về phần quân Văn Thân, sau khi tháo chạy, chúng tập trung về thủ phủ Quảng Nam và gởi lệnh đi khắp nơi để lập lại đoàn quân mới. Chúng hăm dọa những ai từ chối theo chúng.

Ngày 23/9 chúng khởi hành từ thủ phủ Quảng Nam và hướng về Trà Kiệu, mang theo một khẩu đại bác cỡ lớn và chừng 10 quả tạc đạn. Khi vượt qua hồ Chợ Củi (Câu Lâu), cách Trà Kiệu chừng 5km thì chúng nghe một tiếng nổ khủng khiếp và chúng biết rằng quân Pháp đã dùng mìn để đánh sập cổng ra vào thủ phủ, và như thế là thủ phủ đã bị chiếm cứ. Vì thế họ lập tức bỏ khẩu đại bác lại đó, và vất những quả tạc đạn ở cánh đồng bên cạnh rồi chạy trốn. Biết được những việc vừa xảy ra ở làng Chợ Củi, cố Nhơn cho người đến lấy những quả tạc đạn này, còn khẩu đại bác thì bỏ lại vì nó quá nặng.

Kể từ ngày đó, trong một thời gian khá dài, quân Văn Thân không còn thấy xuất hiện nữa...

Cuối cùng vào ngày 20/4/1886, Trà Kiệu lại bị bao vây một lần nữa vào khoảng hai giờ sáng. Cuộc tấn công này không kéo dài, vào lúc rạng sáng thì quân Văn Thân lại tan rã.

Chuyện Ðức Mẹ Trà Kiệu làm phép lạ đã trở nên nhãn tiền, nhưng tại sao Mẹ lại chọn Trà Kiệu nhỏ bé để thực hiện việc ban ơn nầy ? Kính mời quý vị lần giở những trang sử liệu thấm nhuần đức tin của Giáo xứ Trà Kiệu để thêm lòng tin vào biến cố đầy diễm phúc này.

Duy-Trà Phan Cảnh Đăng

Mục lục

 

Tường thuật Thánh Lễ truyền chức Giám Mục Phụ Tá TGP Hà Nội

NAM ĐỊNH - Vào lúc 9g30 ngày ngày 5.12.2008, Đức Tổng Giám mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt đã chủ sự Thánh lễ Tấn phong Giám mục phụ tá Hà Nội Laurensô Chu Văn Minh, tại quảng trường Nhà thờ Nam Định. Nhà thờ nằm ở trung tâm thành phố Nam Định, cách Tòa giám mục Hà Nội 90 km về phía nam. Đồng tế với Đức Tổng Giám mục Hà Nội có Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Đức Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn, Đức Tổng Giám mục Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể và 20 Giám mục thuộc các giáo phận của Giáo hội Việt Nam và hơn 400 linh mục. Khoảng gần 10.000 người thuộc đủ mọi thành phần dân Chúa: giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân cùng quí khách các tôn giáo bạn đã tham dự thánh lễ phong chức Giám mục. Bầu trời Nam Định buổi sáng lễ tấn phong Giám mục trong xanh, chan hòa ánh nắng càng làm cho cộng đoàn tham dự thêm rạng rỡ mừng vui.

Được biết, ngay từ tối hôm trước đã có rất nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ, quí khách gần xa trong nước và hải ngoại, cùng đông đảo giáo dân từ khắp các giáo xứ thuộc giáo phận Hà Nội đã hân hoan tham dự thánh lễ tạ ơn tại Nhà thờ Nam Định do Đức Tân Giám mục Laurensô chủ tế và đêm văn nghệ diễn nguyện mừng Đức Tân Giám mục.

Đầu thánh lễ, Ðức Tổng Giám mục Hà Nội trân trọng giới thiệu quí Giám mục đồng tế và cộng đoàn nhiệt liệt vỗ tay chào mừng các Ngài, đặc biệt là Đức tân Giám mục phụ tá Laurensô Chu Văn Minh. Đức Tân Giám mục đã lấy câu Kinh Thánh PHỤC VỤ TRONG ĐỨC ÁI (Gl 5,13) làm khẩu hiệu giám mục của mình. Khẩu hiệu đó muốn nói lên: Giám mục là thừa tác viên được Chúa Giêsu sai đi để rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng phục vụ tha nhân, nhất là những người cùng khổ thiếu thốn. Những chứng tá bác ái và công việc từ nhân được thể hiện bằng sự thánh thiện, khiêm tốn và vui vẻ phục vụ trong cuộc sống hằng ngày. Đời chỉ đẹp khi ta biết cho đi theo gương Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành đã cho đi cả mạng sống của mình vì yêu thương nhân thế.

Trong bài giảng, Đức Giám mục Stêphanô Tri Bửu Thiên đã diễn giải về tinh thần phục vụ trong đức ái Kitô giáo khởi hứng từ khẩu hiệu của Đức Tân Giám mục. Theo Đức Giám mục Stêphanô, phục vụ đúng theo tinh thần của Đức Kitô là một sự phục vụ hoàn toàn khác việc phục vụ ngoài xã hội: khác ở những lý do và khác ở thái độ bên trong thúc đẩy phục vụ. Phục vụ trong đức ái trước tiên là phục vụ cách nhưng không, cách vô vị lợi; phục vụ trong khiêm nhường; phục vụ cách phổ quát hướng mở đến mọi người. Phục vụ được coi là linh hồn và mục tiêu của các đặc sủng được trao ban. Phục vụ trong đức ái không phải là việc phục vụ trên môi miệng, tức chỉ bằng những lời nói suông, nhưng phải bằng những việc làm cụ thể. Đức Giám mục Stêphanô lưu ý: Đức ái là một đức cần thiết cho sự phục vụ. Tuy nhiên, đức ái không phải là một đức tự nhiên, mà là một đức đối thần và là ân sủng của Thiên Chúa. Vì là một ân sủng, cho nên chúng ta cần phải liên tục cầu xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta, và đặc biệt cho Đức cha Laurensô, để có thể phục vụ trong yêu thương.

Nghi thức tấn phong do Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt chủ phong, Đức Tổng Giám mục Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể và Đức Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng phụ phong. Đức Giám mục Phaolô chính là nghĩa phụ của Đức Tân Giám mục. Nghi thức tấn phong gồm 3 phần: Giới thiệu tiến chức, Nghi thức bí tích và Nghi thức diễn nghĩa.

Mở đầu là phần giới thiệu tiến chức: Một linh mục Ðại diện Tổng giáo phận Hà Nội thỉnh cầu Giám mục chủ phong truyền chức Giám mục cho linh mục Laurensô Chu Văn Minh và đọc Tông sắc bổ nhiệm của Toà Thánh. Sau đó, vị tiến chức công khai tuyên hứa quyết tâm bảo vệ đức tin và chu toàn nhiệm vụ yêu thương và phục vụ dân Chúa. Kế tiếp, vị tiến chức phủ phục trên lễ đài, cộng đoàn cùng hát Kinh Cầu Các Thánh tha thiết nài xin các thánh chuyển cầu ơn Chúa cho vị tiến chức trong sứ mạng sắp được trao phó.

Tiếp theo là nghi thức Bí tích: gồm có việc đặt tay và lời nguyện phong chức giám mục. Cử chỉ đặt tay nói lên việc thông ban Thánh Thần, và lời nguyện thánh hiến làm cho người được tuyển chọn tham dự vào sứ mạng mục tử lãnh đạo của Đức Kitô.

Sau cùng là các nghi thức diễn nghĩa, vị tân chức được xức dầu thánh trên đầu, nhận sách Phúc Âm, nhẫn giám mục, mũ Mitra và gậy Giám mục. Thế rồi, Ðức Tân Giám mục chào cộng đoàn; cộng đoàn vỗ tay chúc mừng Ngài. Và Đức Tổng Giám mục chủ phong cùng các Đức Giám mục đồng tế hân hoan trao hôn bình an Đức tân Giám mục như dấu chỉ đón nhận vị Tân chức vào Giám mục đoàn.

Sau lời nguyện hiệp lễ, Ðức Tân Giám mục nhận mũ Mitra, gậy chủ chăn và được hai linh mục tháp tùng đi ban phép lành cho toàn thể cộng đoàn hiện diện.

Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam trong lời chào mừng Đức tân Giám mục đã nguyện xin Chúa ban thêm ơn khôn ngoan và sức mạnh để Đức tân Giám mục đảm nhiệm trách vụ mới: phục vụ trong đức ái như khẩu hiệu của Đức cha. Ngài cầu mong vị tân chức từ nay hết sức chia sẻ trách nhiệm phục vụ dân Chúa cùng Hội đồng Giám mục Việt Nam. Cầu mong Đức cha dấn thân trọn vẹn phục vụ mọi người theo gương Chúa Giêsu: Vị mục tử nhân lành hiến mạng sống để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào.

Sau đó, linh mục Giacôbê Nguyễn Văn Lý, đại diện giáo phận Hà Nội, bày tỏ niềm vui, chúc mừng đức tân Giám mục và cầu xin Thiên Chúa ban ơn cho Đức cha chu toàn sứ vụ của mình. Ước mong Đức cha sẽ luôn như đóa hoa tươi thắm làm đẹp và tỏa hương cho đời, cho người.

Sau đó, Đức Tân Giám mục Laurensô cùng đại diện gia đình dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã thương ban muôn vàn ơn lành hồn xác, đặc biệt hôm nay đã trao ban cho chức Giám mục cao quí. Đức Tân Giám mục bày tỏ lòng tri ân sâu sắc Mẹ Giáo Hội, Tòa thánh, Tổng giáo phận Hà Nội, Quí Đức cha, Quí cha Tổng Đại Diện, Quí cha Bề trên dòng tu, Quí cha Giám đốc Đại Chủng Viện, Quí cha Giáo sư, Quí cha, Quí nam nữ tu sĩ, Quí Đại biểu tôn giáo bạn, các quý khách trong cũng như ngoài nước cùng toàn thể cộng đồng Dân Chúa đã luôn thương yêu cầu nguyện cho Ngài và hôm nay đã hiện diện hiệp thông chung vui trong thánh lễ đặc biệt này. Đức Tân Giám mục mong ước lấy Đức ái liên kết hiệp nhất muôn người như một. Ngài cầu xin Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình bầu cử, nguyện xin tình yêu của Thiên Chúa luôn ngự trị trong tâm hồn mỗi người và đem lại an bình và hạnh phúc trên quê hương Việt Nam yêu dấu.

Thánh lễ kết thúc trong niền hân hoan phấn khởi có thêm một Tân Giám mục. Tin rằng, Ðức tân Giám mục sẽ theo gương Chúa Giêsu, liên kết trong đức ái huynh đệ với Đức Tổng Giám mục Hà Nội, giúp đỡ ngài đúng như được mong đợi và sinh ích tối đa cho các tín hữu. Chúng ta nguyện xin Thiên Chúa ban cho Ðức tân Giám mục mạnh khoẻ, dồi dào ơn thánh, để ngài chu toàn nhiệm vụ cao cả và nặng nề Chúa trao phó.

Tóm lược tiểu sử Đức tân Giám mục phụ tá Hà Nội Laurensô Chu Văn Minh:

27.12.1943: Sinh tại Nam Định

1956 - 1960: Học tại Tiểu Chủng Viện Gioan Hà Nội

1960 - 1992: Sống tại gia đình và phục vụ tại Giáo xứ Nam Định

1992 - 1994: Học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội

10.06.1994: Thụ phong linh mục tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội

1994 - 1995: Phục vụ tại giáo xứ Nam Định

1995 - 2000: Du học tại Đại học Urbaniana – Rôma

02.09 - 2001: Giáo sư Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội

26.02 - 2002: Thành viên Hội đồng Tư vấn Giáo phận Hà Nội

15.10.2002: Giám học Đại chủng viện Thánh Giuse

04.08.2003: Phó Giám đốc thường trực Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội

01.08.2005: Giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội

15.10.2008: Giám mục Phụ tá Hà Nội

05.12.2008: Chính thức được tấn phong Giám mục

Đêm Văn Nghệ Diễn Nguyện mừng đức tân Giám mục phụ tá Hà Nội

NAM ĐỊNH - Tối ngày 04 - 12 - 2008, tại quảng trường Nhà thờ Chính tòa Nam Định thuộc Tổng giáo phận Hà Nội đã diễn ra đêm văn nghệ diễn nguyện mừng đức tân Giám mục Hà Nội Laurensô Chu Văn Minh với chủ đề: Phục vụ trong Đức ái. Nhà thờ Chính tòa Nam Định cách Tòa giám mục Hà Nội 90 km về phía nam. Trong buổi giao lưu văn nghệ có sự hiện diện của Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, quí Đức cha, quí cha, quí tu sĩ nam nữ, quí vị ân nhân cùng quí khách từ khắp nơi trong nước và hải ngoại cùng hàng ngàn giáo dân từ nhiều giáo xứ thuộc tổng giáo phận Hà Nội về tham dự.

Đêm văn nghệ diễn nguyện mừng Đức tân Giám mục Laurensô có hai phần: Diễn nguyện và Văn nghệ, gồm 16 tiết mục với đủ các thể loại: đơn ca, tốp ca, hợp xướng, kịch… qua sự trình diễn của các ca sĩ, các em Thiếu nhi Thánh Thể, các ca đoàn của các giáo xứ và Hội Dòng Phaolô Hà Nội.

Phần Diễn nguyện khai mở với hợp ca: "Lạy Chúa Thánh Thần", qua đó nài xin Thần Khí Thiên Chúa ban sức mạnh, khôn ngoan và muôn ơn cần thiết cho Đức Tân Giám mục Laurensô cùng cộng đoàn. Tiếp theo là phần Diễn nguyện chủ đề: "Phục vụ trong đức ái" do Hội Dòng Phaolô Hà Nội trình diễn. Tiết mục khởi đi từ gương hi sinh của Chúa Giêsu - Đấng đã yêu thương và phục vụ đến độ thí mạng sống vì nhân loại, rồi đến gương trung kiên hi sinh vì đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam, từ đó dẫn vào cuộc hành trình ơn gọi đầy cam go của Đức Tân Giám mục. Sau khi tiểu chủng viện Hà Nội phải đóng cửa năm 1960, cậu tiểu chủng sinh Laurensô Chu Văn Minh đã phải về quê tu tại gia, kiên gan bền chí đợi chờ suốt 32 năm trời -khoảng thời gian dài 1/3 thế kỉ - cho tới khi được trở lại đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội năm 1992. Nếu thời gian trôi đi quá nhanh đối với người đang vui mừng và trôi đi quá chậm đối với người đang chờ đợi, thì 32 năm trời đằng đẵng mỏn mỏi chờ đợi của cậu chủng sinh Laurensô Chu Văn Minh quả là dài lâu, quả là mỏn mỏi biết chừng nào. 32 năm trời ngài phải sống trong sự đối xử khắc nghiệt của một chính quyền luôn tìm mọi cách gây khó dễ, luôn tìm mọi mưu mô nhằm dập tắt ơn gọi của cậu. Thế nhưng với lý tưởng ơn gọi cao vời, với lòng khát vọng cháy bỏng trở thành linh mục và nhờ ơn Chúa giúp, chủng sinh Laurensô Chu Văn Minh đã vượt qua mọi gian khó chông gai trên hành trình ơn gọi, để đến hôm nay Chúa đã chọn ngài làm một vị giám mục. Quả thật, Chúa đã viết đường thẳng trên những được cong!

Tiếp theo, phần Văn nghệ chào mừng mở đầu với màn trình diễn hoành tráng của khoảng 200 thành viên trong đội kèn trống giáo xứ Nam Định. Tiết mục đã chuyển cảm xúc lắng đọng trong phần diễn nguyện thành niềm vui òa vỡ hân hoan chúc mừng Đức Tân Giám mục Laurensô. Tiếp theo là các tiết mục văn nghệ chào mừng đủ thể loại: thơ, hát, kịch… do các ca sĩ và các ca viên thuộc nhiều giáo xứ trình bày.

Đêm văn nghệ diễn nguyện được khép lại bằng hợp ca "Tình Chúa yêu tôi" nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban muôn vàn tình thương cho Đức Tân Giám mục Laurensô và Tổng giáo phận Hà Nội. Đồng thời, nó cũng mời gọi mọi người cùng nhau chia sẻ những yêu thương đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, cùng nhau gieo những hạt giống Tin Mừng Chúa Giêsu qua những nghĩa cử bác ái yêu thương để làm cho cả tổng giáo phận Hà Nội trở thành khu vườn hạnh phúc.

Chúng ta cùng hiệp thông với Tổng giáo phận Hà Nội hân hoan chúc mừng Đức Tân Giám mục Laurensô và tạ ơn Thiên Chúa đã trao ban Ðức Giám mục như một quà tặng quí giá cho Tổng giáo phận Hà Nội cũng như Giáo hội Việt Nam. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Tân Giám mục Laurensô để ngài chu toàn những trọng trách Chúa trao pho, là người phục vụ trung thành trong đức ái.

Nguyễn Xuân Trường

Mục lục

 

KỶ NIỆM 350 NĂM HỘI THỪA SAI BA LÊ (1658-2008): HỘI THẢO “DẤU ẤN ĐỨC TIN” CỦA UỶ BAN VĂN HOÁ - HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

 

Sài Gòn (6/12/2008). Ngày 6-12-2008, tại Hội trường Trung Tâm Văn Hoá Công Giáo Việt Nam - 6 Tôn Đức Thắng Q.1 TP.HCM, Uỷ ban Văn hoá (UBVH) trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Dấu ấn Đức Tin” kỷ niệm 350 năm thành lập Hội Thừa sai Ba Lê – MEP (Missions étrangères de Paris).

Cuộc hội thảo được đặt dưới sự chủ toạ của Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, chủ tịch UBVH, và hơn 500 hội thảo viên, trong đó có sự tham dự của Đức Hồng y GB Phạm Minh Mẫn (TGP TP.HCM), Đức cha Micael Hoàng Đức Oanh (GP Kon Tum), Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt (GP Bắc Ninh)

 

Sau bài phát biểu khai mạc của Đức Hồng y GB Phạm Minh Mẫn, cuộc Hội thảo đã diễn ra với bốn tham luận, trình bày các khía cạnh lịch sử và những đóng góp lớn lao của Hội Thừa sai Ba Lê – MEP trong việc xây dựng toà nhà Giáo hội Việt Nam suốt quá trình hơn 300 năm tiến đến trưởng thành.

Bài tham luận “Đường hướng và phương pháp truyền giáo đầy sáng tạo của các Thừa sai Ba Lê ở Kon Tum”  do Đức cha Micael Hoàng Đức Oanh và các linh mục Tôma Nguyễn Văn Thượng, Giuse Trần Sĩ Tín, Antôn Lê Ngọc Thanh, Giuse Võ Văn Dũng soạn thảo và trình bày, được sự minh hoạ bằng các điệu múa của giáo dân người dân tộc ở giáo phận Kon Tum, đã thu hút sự chú ý đặc biệt của các hội thảo viên, đặc biệt gợi nhiều cảm kích cho Đức Hồng y GB Phạm Minh Mẫn.

Bản tham luận đã nêu bật những bài học sâu sắc từ kinh nghiệm truyền giáo của các vị thừa sai MEP. Bài học về “con người thừa sai” và “công việc của thừa sai”.

Linh mục Phanxicô Xaviê Đào Trung Hiệu OP trình bày lịch sử thành lập và phát triển, đặc biệt nói về những dấu ấn của Hội Thừa sai Ba Lê – MEP tại Việt Nam về các lĩnh vực: các công trình xây dựng thánh đường, cơ sở bác ái, những đóng góp văn hoá và khoa học, sáng lập các cộng đoàn tu trì; nhất là những dấu ấn trên lĩnh vực tinh thần: vững vàng về niềm tin, kiên định trong đường lối mục vụ, đào tạo giáo sĩ địa phương, tấm lòng đối với người nghèo, tình yêu và sự gắn bó với đất nước và con người Việt Nam.

Linh mục thuyết trình viên đã không nén được xúc động khi thuật về tấm gương thừa sai của Đức cha Paul Seitz – Kim (nguyên giám mục Kon Tum). Bài tham luận của cha Phanxicô Xaviê Đào Trung Hiệu đã nêu một số kiến nghị với Hội đồng Giám mục Việt Nam, các giáo phận và giáo xứ: “quan tâm bảo trì các di tích, tài liệu cổ; xin Giáo Hội xác định những mẫu gương thánh thiện của các tiền nhân, đặc biệt các đấng đáng kính đã từng được tiến hành án phong chân phước; quan tâm giúp bổn đạo hiểu biết và viết tiếp những trang sử yêu thương của Giáo hội Việt Nam”.

Bài tham luận của Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt (GP Bắc Ninh) hướng vào đề tài “Những đóng góp của Hội Thừa sai Ba Lê vào việc nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam”.

Đức cha Cosma trình bày cặn kẽ những đóng góp của các vị thừa sai đã “cống hiến hàng trăm công trình nghiên cứu đa dạng cho ngành Việt ngữ học”: 27 từ điển các loại; sách dạy tiếng Latinh, Việt, Pháp; nhiều chuyên khảo về ngôn ngữ; nghiên cứu về ngôn ngữ của một số sắc tộc thiểu số.

Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Võ (giáo sư Đại chủng viện Thánh Giuse) trình bày tham luận cuối cùng của Hội thảo: “MEP hôm nay”.

Các hội thảo viên đã được linh mục Phêrô cung cấp những thông tin đương thời về Hội Thừa sai Ba Lê, trong đó ngài nhấn mạnh đến sự chuyển biến về hoạt động truyền giáo cũng như nêu bật những giúp đỡ quý báu hiện nay của Hội dành cho Giáo hội Việt Nam.

Cuộc Hội thảo còn được hân hạnh gặp gỡ một linh mục hội viên gốc Việt đang hoạt động thừa sai ở Hong Kong, linh mục Phêrô Lê Văn Thắng. Cha Thắng trình bày ngắn gọn về những yêu cầu “truyền thống” được Hội tiếp tục duy trì đối với các linh mục thừa sai. Ngài cũng cho biết những “thách đố” đang đặt ra cho những hoat động thừa sai trong thế giới hiện đại tại một số nước châu Á.

Trong phần phát biểu kết thúc cuộc Hội thảo, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, chủ tịch UBVH, vừa nói lên tâm tình tri ân đối với các vị thừa sai đã có biết bao đóng góp trong việc xây dựng toà nhà Giáo hội Việt Nam trong hơn 300 năm, vừa nhấn mạnh đến những “tấm lòng” đang làm cho hình ảnh của các vị thừa sai Ba Lê tiếp tục hiện diện trong cuộc sống hôm nay: tấm lòng nhớ ơn, tấm lòng hiệp thông, tấm lòng tiếp bước.

Cuộc Hội thảo “Dấu ấn Đức Tin” kỷ niệm 350 năm thành lập Hội Thừa sai Ba Lê vừa khép lại, liền ngay sau đó đã mở ra một sự kiện mới – Cuộc triển lãm mỹ thuật tôn giáo, cũng do Uỷ ban Văn hoá (UBVH) trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức, sẽ kéo dài trong tuần lễ tiếp theo cuộc Hội thảo “Dấu ấn Đức Tin” rất thành công và đầy ý nghĩa.

Mục lục

 

Hội Cao Niên phường Hố Nai tổ chức Lễ Tạ Ơn và Cầu nguyện

HỐ NAI - Sáng thứ bẩy 29.11.2008, tại Nhà Thờ Giáo Xứ Bắc Hải, Hạt Hố Nai, Giáo Phận Xuân Lộc. Cha Đaminh Bùi Văn Án, chánh xứ Bắc Hải, dâng lễ Tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các Cụ Hội Người Cao Tuổi Phường Hố Nai.

Đến dự Lễ là các Cụ trong 12 giáo xứ: Gia Cốc, Ba Đông, Kim Bích, Mẫu Tâm, Hòa Hiệp, Phú Tảo, Hải Dương, Lộc Lâm, Bắc Hải, Phúc Lâm, Nam Hải, Xuân Trà.

Mở đầu Thánh Lễ, Cha xứ hân hoan dâng lời kính chào Qúy Cụ ! Dịp vui mừng hôm nay là các Cụ quy tụ về đây, trong Ngôi Thánh Đường để cùng nhau Tạ ơn Chúa một năm đã qua, với bao hồng ân, ơn huệ của Chúa ban cho các Cụ phần hồn phần xác, cũng như cầu nguyện cho các Cụ đã qua đời, xin Chúa GieSu, Đấng luôn yêu thương gìn giữ các Cụ được an mạnh hôm qua, hôm nay và cho đến ngày trình diện Chúa.

Trước khi kết lễ, ông Nguyễn Văn Đường, Hội Trưởng của Hội, thay mặt các Cụ lên dâng lời cảm ơn Cha xứ, quý vị Ban Hành Giáo, Qúy ân nhân, cũng như chúc mừng và cảm ơn các Cụ đã cố gắng đến tham dự Thánh Lễ Tạ ơn hôm nay.

Và ông cho biết Hội có 1768 Cụ, trong năm có 67 Cụ qua đời, và hiện có 128 Cụ đang đau ốm nằm trên giường bệnh, các Cụ luôn vui vẻ chấp nhận, chịu đau khổ do bệnh tật tuổi già. Hội thường xuyên tổ chức thăm hỏi, chăm lo cho các Cụ, nhất là vào các dịp lễ tết, lễ Quốc tế Người Cao Tuổi mùng 01.10 hàng năm.

Đặc biệt trong năm qua, bằng những đồng tiền tiết kiệm của các Cụ do con cháu biếu, các Cụ đã giúp đỡ ủng hộ xây được 09 căn nhà Tình Thương cho người nghèo trong Phường, cũng như giúp đỡ quần áo, mũ nón, vải vóc, tiền bạc cho bà con vùng sâu vùng xa nghèo hoặc bị bão lụt.

Tiếp lời cảm ơn của ông Hội Trưởng, Cha xứ nói: “Trong dịp dâng lễ Tạ ơn và cầu nguyện cho các Cụ hôm nay, khiến tôi hết sức cảm động ! cảm động vì có Cha Mẹ, có ông nội vẫn còn sống với mình trên cõi đời này ! các Ngài là cây cao bóng cả cho những người con người cháu ! Xin thay mặt cho những người con người cháu ! Xin kính chúc sức khỏe quý Cụ, kính chúc quý Cụ sống an vui trong tuổi già, là mẫu gương sáng của đời sống đức tin cho con cháu noi theo, bó hoa tươi mà Hội vừa tặng, tôi nhận và xin dành kính tặng Cụ cao niên nhất hôm nay 92 tuổi“.

Trong khi Cha xứ đến bên Cụ để tặng hoa, thì một tràng pháo tay của các Cụ vang lên niềm vui Tạ ơn Chúa Quan Phòng, một niềm Tín Thác đời mình cho Chúa.

Giuse Khổng Hữu Nguồn

Mục lục

NHÀ THỜ GIO LINH - PHAN THIẾT

 

Ngày 29.11.2008, Đức Giám Mục Phan Thiết, Phaolô Nguyễn Thanh Hoan cùng đồng tế với 60 linh mục, đã cung hiến Thánh đường Giáo xứ Gio Linh, Hạt Hàm Tân. Trời âm u, mưa ảm đạm những ngày qua do áp thấp nhiệt đới. Bởi tình mến thương nên có đông đảo tu sĩ nam nữ và khoảng 3.000 giáo dân cùng đội mưa gió đến chung lời tạ ơn. Các linh mục và ân nhân xa gần đến Gio linh để chia sẻ niềm vui với bà con giáo dân và chúc mừng Cha quản xứ Philipphê Lê Trọng Phan, ngài đã 73 tuổi, vẫn miệt mài xây dựng, hoàn thành ngôi Nhà thờ và nhiều công trình khác; thật đáng khâm phục lòng nhiệt thành với Nhà Chúa của cha già.

 

Môt chặng đường dài hơn 36 năm kể từ mùa hè đỏ lửa 1972, trải qua bao gian khó nhọc nhằn, nay Gio Linh đã có Ngôi Nhà thờ mới khang trang bề thế, một trang sử mới đựơc mở ra nơi miền đất cát cằn cỗi gió bay. 

 

Giáo xứ Gio linh có gốc gác từ Tỉnh Quảng Trị. Những tín hữu di cư vào Nam tránh đạn bom qua hai cuộc chiến ác liệt nhất: Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Trung Lương và Gio Linh nằm ở địa đầu giới tuyến 17, ven sông Bến Hải, ranh giới chia cắt Nam Bắc. Dân chúng ở đó gánh chịu những trận bão pháo mưa đạn của cả hai bên Cộng sản và Cộng hoà.

 

Từ năm 1966 bà con rời bỏ quê hương, đến tỵ nạn ở Cam Lộ, một số giáo dân đến định cư ở Hà Thanh, Quán Ngang.

 

Chiến tranh từ 1968 đến 1972, lan rộng và dữ dội, dân Quảng Trị di tản vào thành phố Đà Nẵng, sống tạm trong những trại tỵ nạn.

 

Năm 1973 đoàn người tỵ nạn lại lên đường vào Nam. Định cư tại vùng đất Bình Tuy với ước mơ an cư lạc nghiệp. Chiến tranh để lại những nổi đau thương mất mát. Nhiều gia đình trắng tay vì ly loạn, phải bỏ đi tất cả để mong đựơc sống. Nhiều mất mát tang thương, cha mẹ mất con cái, vợ chồng mất nhau, anh em trong gia đình thất lạc.

 

Di dân từ Quảng Trị vào Nam tập trung vào ba địa phương chính: Đông Hà, Động Đền và Sơn Mỹ. Các Linh mục cùng đồng hành với giáo dân trên hành trình di tản, lập nên các giáo xứ mới: Thánh Linh, Đông Hà, Tin Mừng, Phục sinh và Gio linh.

 

Năm 1974, cha cố Phaolô Trương Công Giáo di cư cùng đoàn người tỵ nạn. Ngài quy tụ các giáo hữu tản mác từ nhiều nơi hợp với  giáo dân gốc Quán Ngang của ngài rồi lập thành giáo xứ mới lấy tên là Gio Linh. Số giáo dân lúc này là 2000. Cha xứ cùng bà con bắt tay làm Nhà thờ. Rừng bạt ngàn. Đất bao la nhưng toàn cát trắng. Gần một năm, ngôi nhà thờ gỗ sắp hoàn thành thì biến cố 1975 làm thay đổi tất cả.

 

Nhiều gia đình bỏ miền đất này đi lập nghiệp nơi khác. Một số tìm đường “vượt biên” tìm tự do. Đất cát khô cằn. Cuộc sống quá khó khăn. Dân chúng bắt đầu phá rừng, bán củi, đốt than, làm rẫy để sinh sống. Mấy mươi năm định cư nơi đây mà đời sống người dân không nhích lên nổi. Trong nhà, phương tiện duy nhất để làm ăn là chiếc xe đạp thồ, thồ cây gỗ từ rừng về và thồ than củi đi Lagi bán.

 

Năm 1983, cha già Giáo đến tuổi hưu. Đức Cha Nicolas bổ nhiệm cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Vân Nam làm quản xứ. Sống hoà mình với dân nghèo, cha xứ làm vườn, làm nghề chằm nón để sinh sống. Cuộc sống chật vật thiếu thốn mà ấm áp tình cha con. Đến năm 1990, ngài sửa chữa lại nhà thờ, tô tường, tráng nền ximăng, sơn sửa mái tôn, làm lại dàn kèo cột, đóng trần.

 

Tháng 6 năm 1994, Đức Cha Nicolas bổ nhiệm cha Philipphê Lê Trọng Phan về làm quản xứ. Cha Nam lên Cù Mi nhận nhiệm sở mới.

 

Bước đầu, cha xứ mới kêu gọi giáo dân tập trồng cây tràm khắp khuôn viên giáo xứ rộng 4ha. Vườn tràm đem lại màu xanh sức sống, toả bóng mát cho giáo xứ. Nhờ vườn tràm, giáo xứ là dàn giáo và đóng mới toàn bộ ghế quỳ trong nhà thờ.

 

Năm 1998, cha xứ xây nhà xứ.

 

Năm 2003, xây nhà giáo lý, xây nhà trẻ, mời các Nữ Tu Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết về giúp giáo xứ, mở nhà trẻ.

 

Nhà thờ xuống cấp trầm trọng. Mùa mưa nước tràn vào khắp nơi. Đức Cha Nicolas khuyến khích xây lại mới. Giáo xứ nghèo nên lo ngại vì kinh phí quá lớn.

 

Tuy vậy, tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa, thì “mọi sự đều có thể làm được”. Đó là động lực để cha xứ và cộng đoàn chung tay xây nhà thờ mới.

 

Ngày 28. 4.2006, lễ đặt viên đá đầu tiên. Sau đó, tháo gỡ nhà thờ cũ, xây nhà kho, làm nhà thờ tạm.

 

Ngày 6. 11.2006, khởi công xây dựng. Điều đáng kính nể là nhà thờ đổ mái bêtông mà giáo xứ tự làm lấy từ công giáo dân. Mua sắm máy móc và dụng cụ thi công. Nhờ Kỹ sư Hòa ở xứ Đồng Tiến và kỹ sư Mười ở Sài gòn giám sát thi công. Bà con giáo dân đóng góp công lao động ròng rã hai năm, khoảng năm ngàn ngày công. Sự lao nhọc vì nhà Chúa như chất keo gắn bó mọi người lại trong tình hiệp nhất chung tay xây Nhà Chúa.

 

Cuối năm 2007, vật giá trở nên bất ổn. Năm 2008, giá cả leo thang từng ngày, giá sắt tăng dần lên gấp bốn, ximăng lên gấp đôi, tiền lương công thợ cũng lên gấp đôi. Cha xứ đầu bạc phơ vì quá lo lắng. Nhờ sự trợ giúp của Bộ Truyền giáo, Giáo phận Stuttgar, Đức, tổ chức Koch Foundation, Mỹ và nhiều ân nhân, nên giáo xứ đã hoàn thành ngôi Nhà Thờ khang trang.

 

Gio linh, một giáo xứ miền biển. Ngày đêm sóng vỗ hoà quyện trong tiếng chuông, đan xen trong lời kinh tiếng hát sáng tối của cộng đoàn làm nên một nét rất riêng tư của xứ đạo miền quê vùng duyên hải. Cùng với Ngôi Nhà Thờ mới bề thế, Giáo xứ Gio linh đã làm nên một cộng đoàn đức tin sống động, hiệp nhất yêu thương đưa xứ đạo ngày càng  phát triển. 

 

Trong bài phỏng vấn ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh về Thượng Hội Đồng Giám Mục và Giáo Hội Việt Nam phóng viên đặt câu hỏi:

 

Với tinh cách Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức cha đã tham dự mục vụ ở nhiều nơi: Lavang, Phát diệm, Sài gon, …theo Đức cha, hình ảnh nào diễn tả người công giáo Việt Nam hiện nay một cách trung thực hơn cả?  

Đức Cha Linh trả lời: “Hình ảnh trung thực” hơn cả, đó là một khái niệm có tính cách tương đối. Tương đối bởi vì nó hoàn toàn tuỳ theo quan điểm riêng của mỗi người. Theo chủ quan của tôi, hình ảnh diễn tả người công giáo Việt Nam hiện nay trung thực hơn cả là hình ảnh một người giáo dân đang tham gia công trình xây dựng nhà thờ: không hận thù, tạm quên việc sinh kế, hết lòng vì Nước Chúa, vì Giáo Hội…

 

Cầu chúc cha xứ và giáo dân Giáo xứ Gio linh với ngôi Nhà thờ mới đẹp đẽ, và lòng người cũng mới để mỗi người tín hữu xây dựng đền thờ tâm hồn xứng đáng cho Chúa ngự. 

 

Vô Nhiễm 30.11.2008

Lm Giuse Nguyễn Hữu An 

Mục lục

 

Tĩnh Tâm Linh mục Nha Trang năm 2009


Khoảng 140 Linh mục Giáo phận Nha Trang cùng với hai Đức Cha Chính và Phó giáo phận tham dự cuộc Tĩnh tâm năm 2009 tại Toà Giám Mục, từ trưa thứ hai (1.12) đến sáng thứ tư (4.12) do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục phụ tá Giáo phận Bùi Chu và Chủ tịch Ủy ban Truyền thông của Hội đồng Giám mục Việt Nam, hướng dẫn với đề tài “Căn tính linh mục: hiện thân của Chúa và của Lời Chúa –Thách đố và đòi hỏi của thời đại”.


Bối cảnh thay đổi của xã hội và tôn giáo, cách riêng hoàn cảnh của Giáo hội ngày nay, là một thách đố có những thuận lợi cũng như bất lợi đối với mọi thành phần Dân Chúa. Giám mục, linh mục không sợ hãi, không trốn chạy trước những thách đố này nhưng phải đáp trả bằng cách sống thực, sống đúng với căn tính, ơn gọi Giám mục và linh mục của mình.


Theo bố cục của Sứ điệp của Thượng hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XII về Lời Chúa vừa kết thúc vào cuối tháng 10.2008, Linh mục chính là hiện thân của Chúa và của Lời Chúa, tỏ lộ và thông truyền diện mạo của Chúa. Linh mục cũng là Nhà của Chúa –Hòm bia Lời Chúa. Do đó, hành trình của Linh mục chính là sứ vụ loan báo, truyền thông Lời Chúa cho mọi người. Chính vì thế, Giáo hội và cách riêng các Giám mục và linh mục phải sử dụng ngôn ngữ và kỹ thuật truyền thông của thời đại hôm nay để có thể đi đến với mọi người, nhất là người trẻ.


Đây là lần đầu tiên (sau năm 1975) Giáo phận tổ chức Tĩnh tâm thường niên vào đầu Mùa Vọng với mục đích để linh mục đoàn có dịp mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, Bổn mạng của Giáo phận Nha Trang, tại Nhà thờ Chánh Toà và cũng nhằm chia đều các cuộc học hỏi, gặp gỡ của các linh mục trong một năm.


Đặc biệt, năm nay khởi đầu năm kỷ niệm Kim khánh Linh mục (1959-2009) của Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, Giám mục Giáo phận Nha Trang, các linh mục kết thúc cuộc Tĩnh tâm với thánh lễ truyền chức linh mục và phó tế tại nhà thờ Chánh Toà. Các tân linh mục và tân phó tế là những hoa trái của Giáo phận dâng lên Thiên Chúa để tạ ơn và để cổ võ thiên chức linh mục trong năm mừng Kim khánh Linh mục của Đức Cha Chính Phaolô. Cuộc Tĩnh tâm năm nay cũng ngắn hơn mọi năm vì các Đức Cha đi tham dự thánh lễ tấn phong Giám mục phụ tá Giáo phận Hà Nội vào ngày 5.12.2008. Tuy nhiên, các linh mục vẫn nhận được cách đầy đủ và xúc tích các chất liệu quý giá để tiếp tục nghiền ngẫm và hướng dẫn các hoạt động mục vụ trong suốt năm 2009.


Là Giám mục Chủ tịch Ủy ban Truyền thông, Đức Cha Phêrô Nguyễn văn Đệ sử dụng thành thạo phương tiện truyền thông nghe nhìn để minh hoạ cho các bài giảng. Phương pháp này đã có hiệu quả tốt nơi các linh mục Giáo phận Nha Trang.


Kết thúc những ngày tĩnh tâm, linh mục đoàn Giáo phận Nha Trang cám ơn quý Đức Cha đã tổ chức Tuần Tĩnh Tâm Thường niên cũng như mọi thành phần dân chúa trong Giáo phận đã cầu nguyện và đóng góp cho cuộc tĩnh tâm được diễn ra tốt đẹp.


Quang Tiến

Mục lục

 

 

TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN BAN MÊ THUỘT

Từ ngày 24 - 29/11/2008, khoảng 100 Linh mục Triều, Dòng thuộc Giáo phận Banmêthuột, đã trở về Tòa Giám mục Banmêthuột (BMT) để dự tuần tĩnh tâm thường niên, dưới sự hướng dẫn của Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Giáo phận Hải Phòng.

17giờ ngày 24/11/2008, tại nhà nguyện Tòa Giám mục BMT, Đức cha Vũ Văn Thiên đã khai mạc tĩnh tâm chủ sự giờ chầu Thánh Thể.

Đề tài chính của tuần tĩnh tâm là : "Ở lại trong Chúa và với anh em.”

Theo Tin Mừng Thánh Gioan, đề tài này được ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên triển khai qua bảy bài chia sẻ:
1) Linh mục phải là chứng nhân của Chúa Kitô. (Gn 2, 11)

2) Linh mục phải là dấu chỉ về Thiên Chúa và Đức Kitô trong thế giới và Đất nước Việt Nam hôm nay.

3) Linh mục là người của đối thoại, (Gn 2, 9 -10 ), (Gn2, 23-25), (Gn7, 46). Đối thoại với mọi tầng lớp trong xã hội, Linh mục học hỏi, rút kinh nghiệm để có thể đem lại bình an đến cho mọi người.

4) Linh mục là người tự do, tự do trong sự thật, (Gn 8,32-36), không bị kiềm tỏa bởi những tính mê, nết xấu, tiền tài , danh vọng…

5) Linh mục là “người bẻ bánh cho dân Chúa” (KH 10, 9 -10). Linh mục phải phục vụ, sống hết mình vì đoàn chiên.

6) Linh mục phải là ánh sáng giữa đêm đen (Gn1, 3 -9), chống lại sự ác, bất công (tham nhũng, xì ke...xã hội đen v..v), đem hy vọng và niềm vui đến cho xã hội và những người bất hạnh.

7) Linh mục với Mẹ Maria, (Gn 2,3), (Gn 19, 26 - 27):

- Đức Giêsu vâng lời Đức Mẹ (tiệc cưới Cana)

- Trên Thánh giá Đức Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và trối Thánh Goan cho Đức Mẹ và như thế Đức Mẹ là mẹ của các Linh mục.

Lúc 5 giờ sáng ngày 28/11/2008, tại nhà thờ Chính tòa Banmêthuột, Đức cha Giám quản Phaolô Nguyễn Văn Hòa và Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên đồng tế cùng với đoàn linh mục dự tuần tĩnh tâm, kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, và cầu nguyện cho giáo phận.

Trong bài giảng ĐGM chủ tế Nguyễn Văn Hòa nhấn mạnh về tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã tỏ cho Thánh Margarita, kêu gọi lòng tôn sùng Thánh Tâm, và tình yêu Thiên Chúa phải được thể hiện cụ thể lan tỏa đến cho mọi người.

Tuần tĩnh tâm diễn tiến rất sốt sắng và tốt đẹp. Trong giờ chầu bế mạc, các Linh mục “Lặp lại lời hứa Linh mục” trước Chúa Giêsu Thánh Thể, để rồi như được thêm sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các ngài hân hoan, hăng hái trở về nhiệm sở tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng.

Anh Thư

 

 

Ngày Quốc Tế Khuyết Tật tại giáo xứ thánh Martinô Thị Nghè

Sàigòn: Sáng nay, 3-12 ngày quốc tế người khuyết tật, giáo xứ thánh Martinô – Thị Nghè đã tổ chức bữa ăn đặc biệt dành cho những người khuyết tật. đây là lần thứ hai, từ ngày sinh họat lại, giáo xứ đã tổ chức cho anh chị em kém may mắn, đa số họ làm công nhân, bán vé số, ăn xin…. Đủ mọi thành phần.

Ngoài ra, Mỗi chủ nhật, từ khi thành lập giáo xứ đến nay, giáo xứ đã liên tục tổ chức những bữa ăn sau thánh lễ sáng chủ nhật. Và trợ cấp gạo hàng tháng cho các anh chị em khuyết tật và người nghèo. Số khuyết tật hiện nay 160 người, người nghèo trong giáo xứ 120 người. Những bữa ăn này cũng chung cho cả những anh chị em nghèo. Vì ngừơi nghèo cũng là thành phần khuyết tật. mỗi tháng, giáo xứ lo hơn 1 tấn gạo để giúp anh chị em khuyết tật và ngừơi nghèo.

Giáo xứ đã đi vào họat động cách đây hơn một năm, chúng ta biết rằng, trước 1975, nơi đây là trại tế bần, nơi dành cho những người bị bỏ rơi, người già không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, là nơi nổi tiếng vùng Đông Nam A tại Việt Nam. Với diện tích trên 10 mẫu, hiện nay nhà nước vẫn quản lý để kinh doanh, dạy lái xe, cho thuê mướn mặt bằng để kinh doanh, cho các trường cao đẳng và dạy nghề mướn phòng ốc, nói chung là kinh doanh “tạp xí lù”.

Nhà thờ với thánh hiệu Martinô, với số tuổi gần 150 năm được xây dựng từ năm 1870, do các cha thừa sai khi đặt chân đến Việt Nam, đã xây dựng cơ sở trại tế bần đầu tiên. Số người được nuôi dưỡng trước 1975 thường xuyên là 2,000 người, với 200 Soeure Dòng Thánh Phaolô phục vụ. Hiện nay, căn nhà các Soeure đã từng phục vụ nhà nước vẫn chưa trả, cho dù cả hơn 20 năm nay, các Soeure vẫn kiên trì xin lại, nhưng vẫn chưa được.

Hiện nay, với diện tích nhỏ hẹp, bị các cơ sở của nhà nước o ép, trường cho mướn, bãi tập lái xe, cho nên nhà thờ bị ép sát hàng rào không đầy 1 mét, còn sân trước chỉ 1,5 mét. Thé nhưng từ ngày nhà thờ trở lại sinh họat, là điểm hội tụ của biết bao người tứ cố vô thân nương tựa. Được an ủi về tâm linh và thể xác. Hy vọng với cơ sở của trại tế bần ngày xưa đừng bị xóa mà có ngày nào sẽ trả lại cho giáo hội Việt Nam, để tiếp tục, chăm lo cho những con người bất hạnh trong xã hội.

Lm Phêrô Vũ Minh Hùng

Mục lục

 

MỪNG LỄ THÁNH NICOLAS BARI BỔN MẠNG GIÁO XỨ CHÁNH TÒA ĐÀLẠT

 

 Cách đây hơn 90 năm (1917), cha Nicolas Couvreur, một linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris đã đến Đàlạt, với mục đích chọn nơi nghỉ dưỡng cho các giáo sĩ. Dưỡng viện giáo đồ (nay là một phần của nhà xứ Chánh tòa) đã được xây dựng cho mục đích ban đầu này. Với bước khởi sự thật đơn sơ bé nhỏ, Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại và lạ lùng tại vùng đất cao nguyên này. Cũng chính lòng nhiệt thành của cha Couvreur, theo tinh thần Thánh Giám mục Nicolas, mà Nhà thờ Đàlạt rồi đây sẽ mang danh hiệu Thánh Nicolas Bari

 

Ngày 10.5.1920, Cha Frédéric Sidot được cử làm Cha Sở đầu tiên của Giáo họ Đàlạt vừa có quyết định thành lập. Ngài đã xây dựng ngôi Nhà thờ đầu tiên (Nhà Truyền thống hiện nay).

 

Do số tín hữu tăng quá nhanh, với tầm nhìn của các Mục tử và do Ơn Chúa tác động, vào lúc 9 giờ sáng Chúa nhật ngày 19.7.1931, Đức Cha Colomban Dreyer, Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương và Thái Lan, đã chủ sự Thánh lễ đặt viên đá xây dựng ngôi Nhà thờ thứ ba. Việc xây cất ròng rã trong 11 năm dưới thời cha Célèste Nicolas, Cha Sở thứ hai của Họ Đạo Đàlạt, với một lời nguyện : “Muôn thế hệ của Họ Đạo Đàlạt sẽ ghi nhớ công ơn Thánh Nicolas Bari”.

 

Trong niềm hân hoan của toàn thể Giáo Hội Việt Nam, với sắc chỉ Venerabilium Nostronum ngày 24.11.1960 của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, về việc “Thiết lập Phẩm trật Giáo hội tại Việt nam”, cùng lúc địa phận Đàlạt -thuộc Giáo tỉnh Sàigòn- được thành lập với “Nhà thờ Chánh Tòa danh hiệu thánh Nicôlas Bari”.

 

Chiều ngày 05.12.2008, gia đình Giáo xứ Chánh Tòa đã quây quần bên nhau cùng hiệp lời Tạ ơn Thiên Chúa, tôn vinh Thánh Quan thầy. Hiện diện trong Thánh lễ này, ngoài Cha Tổng Đại diện Phaolô, cũng là Cha Sở của Giáo xứ, còn có một số Cha trong Giáo Hạt Đàlạt, các cộng đoàn tu sĩ trong Giáo xứ, bà con giáo dân và đặc biệt, có nhiều Bạn trẻ (hôm nay cũng là thứ Sáu đầu tháng, Thánh lễ cầu nguyện cho giới trẻ). Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn không thể hiện diện vì ngài tham dự lễ Tấn Phong Giám Mục tại Bắc Ninh.

 

Qua các Bài đọc Lời Chúa, Cha Tổng Đại diện Phaolô chia sẻ cùng cộng đoàn tham dự về hình ảnh “Mục Tử nhân lành và đàn chiên”. Các Giám mục là những người kế vị các thánh Tông đồ, cũng nhận được lời mời gọi và lệnh truyền từ Đức Giêsu như các ngài, là trở nên Mục tử nhân lành theo gương Đức Giêsu. Thánh Giám mục Nicolas không là trường hợp ngoại lệ và ngài đã sống trọn vẹn như lời mời gọi ấy, đã ban phát tất cả gia sản cho những ai nghèo khó, mà ngài được thừa hưởng từ cha mẹ ; đã cứu vớt những người tội lỗi, bênh đỡ những ai bị áp bức, che chở những người gặp hoạn nạn, cứu sống các trẻ em vô tội, dẫn dắt đàn chiên tránh khỏi những lạc thuyết…

 

Cha Phaolô mời gọi : “Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho Đức Cha Phêrô và cho các Đức Giám mục trong ngày lễ này, để chính các ngài cũng trở nên những mục tử tốt lành.

 

Xin Cộng đoàn cũng thương cầu nguyện cho anh em Linh mục, để chúng tôi trở nên những con người hiền lành, phục vụ anh chị em cách khiêm tốn như thánh Nicôla như ngài nói : anh em phải ngợi khen, phải tạ ơn Thiên Chúa, còn tôi chỉ là kẻ tội lỗi, tôi chỉ là người đầy tớ vô dụng mà thôi. Ước gì chúng tôi cũng có tinh thần và tâm tình của thánh nhân để tiếp tục hướng dẫn, chăm sóc, an ủi, bảo vệ anh chị em ; ước gì chúng tôi cũng biết hy sinh thời giờ, khả năng, sức sống của mình để phục vụ anh chị em.

 

Tất cả chúng ta đều là chiên trong đàn mà Đức Giêsu Kitô là Mục Tử. Ước gì chúng ta biết lắng nghe lời Ngài, sống mãi trong sự che chở của Ngài và không khi nào lạc lối, vì con chiên lạc sẽ gặp biết bao đe dọa, hiểm nguy. Ước gì mọi người sẽ trở nên đàn chiên duy nhất theo một Chủ chiên, luôn lắng nghe và đi theo sự hướng dẫn của Ngài để được bao bọc, chở che, bênh đỡ”.

 

Trong những ngày này, cả Giáo xứ đang nỗ lực tu bổ lại ngôi Nhà thờ thân yêu, để hướng về Năm Thánh 2010, là Năm Kim Khánh của Giáo Hội Việt nam ; là 50 năm Giáo phận Đàlạt được thành lập ; là tròn 90 năm Giáo xứ Chánh Tòa hình thành và phát triển… Nhưng như lời Đức Cha Phêrô nhắn nhủ “Mỗi người hãy tự đặt cho mình một mục tiêu cụ thể trong việc truyền giáo, đó mới là cách mừng lễ cách thiết thực và đúng đắn nhất. Muốn làm được điều đó, phải biết lắng nghe và làm theo Lời Chúa, phải biết sống hiệp nhất và yêu thương, phải biết mở rộng tâm hồn để đón nhận tất cả những ai thành tâm thiện chí, muốn tìm về Thiên Chúa là Chân - Thiện - Mỹ”.

Tứ Linh

Mục lục

 

 

 

THÁNH LỄ MỪNG KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, BỔN MẠNG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO &KỶ NIỆM 17 NĂM GIÁM MỤC CỦA ĐỨC CHA PHÊRÔ NGUYỄN VĂN NHƠN

Sau một tháng tu bổ ngôi thánh đường giáo xứ, với giai đoạn một gồm việc sơn quét bên trong nhà thờ, hoàn chỉnh hệ thống âm thanh, thiết kế mới ánh sáng, phục hồi gác chuông theo nguyên trạng … đã hoàn tất, Giáo xứ Chánh Tòa  Đàlạt đã có một thánh lễ tạ ơn thật đẹp vào chiều ngày thứ tư, 03.12.2008, mừng lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, Quan thầy các xứ truyền giáo, cũng là ngày giáp năm thụ phong giám mục của Đức cha Phêrô. Nguyễn Văn Nhơn

Thánh lễ tạ ơn đặc biệt hôm nay, ngoài Đức Giám mục Giáo phận Đàlạt, còn có 6 giám mục và 140 linh mục đồng tế cùng đông đảo tu sĩ nam nữ và bà con giáo dân cùng tham dự. Thật là một Thánh lễ long trọng, sốt mến và diễn tả được sự hiệp nhất sâu thẳm của gia đình Giáo hội.

Mở đầu thánh lễ, Đức Giám mục Đàlạt đã ngỏ lời với cộng đoàn hiện diện về ý nghĩa của ngày lễ hôm nay : 1/ Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, Bổn mạng các xứ truyền giáo. Là một linh mục dòng Tên (Chúa Giêsu), ngài đã cùng với Thánh Inhaxiô và 5 anh em nữa khai sinh Hội Dòng vào năm 1534, làm linh mục rồi được sai đi lên đường truyền giáo không mỏi mệt tại Nhật Bản, Ấn Độ và đã ngã bệnh khi đang trên đường đến Trung Hoa. Ngài đã trút hơi thở khi hướng về lục địa này trong lời cầu xin : Lạy Chúa, còn nữa, còn nữa (… các linh hồn).

2/ Khi nhắc đến dòng Tên, hôm nay anh chị em thấy có quý Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh (Giáo phận Thanh Hóa – Phó Chủ tịch HĐGM Việt nam), Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân (Giáo phận Vĩnh Long), Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh (Giáo phận Kontum), Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương (Giáo phận Hưng Hóa), Đức Cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng Phụ tá Tổng giáo phận Huế), Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt sj (Giáo phận Bắc Ninh) hiện diện cùng với đông đảo các linh mục cựu học viên của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X đến Đàlạt để mừng kỷ niệm 50 năm khai sinh một Đại chủng viện theo thỉnh cầu của các giám mục miền Nam Vệt Nam lúc ấy. Chủng viện được trao cho các cha dòng Tên phụ trách việc huấn luyện, ban đầu có tên là Giáo hoàng chủng viện Mẫu Tâm. Hôm nay đặc biệt có sự hiện diện của Cha Paul Deslierres là người thầy đã có mặt ngay từ giây phút khởi đầu cho đến ngày cuối tháng 8/1975, ngài “là người thầy của tất cả chúng tôi, những anh em đã từng có thời gian theo học tại Giáo Hoàng học viện Piô X Đàlạt. [được biết, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X có 18 khóa, từ 1958 đến 1975/1976, với 561 học viên là chủng sinh giáo phận hay tu sĩ các dòng gửi theo học. Hiện nay theo thống kê, Học viện đã có 12 giám mục (2 dòng), 306 linh mục (227 triều và 79 dòng, 243 “bố đời”)].

3/ Thánh lễ hôm nay cũng là giáp năm giám mục của tôi mà cũng vì yêu thương, nên anh em cưu học viên đã có nhã ý về cùng với tôi dâng lời tạ ơn Chúa và mừng trễ dịp 70 tuổi của tôi. Thế nên trong những ngày này, Tòa Giám Mục vang lên lời “thất thập” (=70 năm tuổi đời), “thập thất” (=17 năm giám mục). Xin cám ơn quý Đức cha, quý cha, các tu sĩ nam nữ chủng sinh và anh chị em…

Trong những ngày vừa qua, các thế hệ của Giáo Hoàng Học viện Piô X đã gặp mặt tại Tòa Giám mục Đàlạt nhân dịp mừng 50 năm thành lập. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các Giám mục và Linh mục hôm nay còn để Tạ ơn Thiên Chúa, chúc mừng Đức Cha Phêrô dịp Tấn phong Giám mục (1991-2008) và mừng thọ 70 của ngài (1938-2008).

Trong bài giảng lễ, Đức Cha chia sẻ và nhắn nhủ :

 Anh chị em thân mến,

Ba bài Kinh Thánh (Is 2,1-5 ; 1Cr 9,16-19.22-23 ; Mc 16,15-20) vừa nghe rất phong phú, vì cả ba đều hướng về việc truyền giáo. Anh chị em có thể cảm nghiệm Lời Chúa hiện diện và hoạt động nơi mình theo sự soi sáng thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, theo tâm trạng và những cảm nghiệm riêng tư. Còn tôi, xin chia sẻ những cảm nghiệm của riêng mình.

Khởi đi từ bài trích sách tiên tri Isaia : mỗi lần đọc bài này, tôi lại liên tưởng tới đỉnh núi Langbian, tới những vùng đất xa xôi, nghèo nàn, đói khổ và lại nhận ra chính những nơi đó, con cái của Chúa lại sống Tin Mừng cách chân thật, trung thành, gần gũi với Lời Chúa. Tiên tri Isaia có cái nhìn về Ngày Cánh Chung, Nhà Chúa được xây trên đỉnh núi, núi đó cao hơn các đồi, để muôn dân thiên hạ có thể nhìn thấy và tuôn đổ về đó, để được đón nhận sự giáo huấn của Thiên Chúa…

Dưới chân núi Langbian có một Giáo xứ kỳ cựu, ngày nay hầu như là Công giáo toàn tòng, anh chị em đồng bào dân tộc tại đây thật sự sống đức tin của mình. Nhưng đời sống đức tin đang gặp nhiều thử thách, nguy hiểm, du lịch phát triển thì cũng tạo ra một bầu khí không còn thuần khiết, các cha phụ trách Langbian ngày càng vất vả…

Nghĩ đến một vùng đất khác, nơi giáp giới giữa Giáo phận chúng ta và Giáo phận Ban Mê Thuột, một vùng đất hơn 30 năm không có linh mục, không có tu sĩ. Trước đây, đến lễ Giáng sinh, Phục sinh hàng năm, anh chị em dân tộc phải đi thật xa để dự lễ… Hiện nay, một nhà thờ đang được xây dựng (hôm đặt viên đá đầu tiên có khoảng 16.000 giáo dân tham dự), có hai cha đang giúp tại nơi này, ngày thường với khoảng 400 giáo dân, ngày Chúa nhật có đến 4.000 hay 5.000 giáo dân tham dự Thánh lễ…

Qua hai ví dụ trên, chúng ta thấy hình ảnh tiên tri Isaia nói đến được thể hiện. Nhưng cái nhìn của Isaia sâu sắc hơn : Tin Mừng của Chúa được ban phát, nếu người ta đón nhận và sống theo Tin mừng đó thì không còn hận thù, không còn chiến tranh, chỉ có yêu thương, chỉ có hòa bình. Điều Isaia mô tả là cảnh chúng ta khao khát, phải làm sao để nơi nào đón nhận Lời Chúa thì họ sẽ sống Lời Chúa, biết biến đổi môi trường đó thành một đại gia đình của tình yêu, của sự bình an, hiệp nhất.

Đó là việc chúng ta phải nỗ lực hết mình. Mỗi lần nghĩ đến những vùng đất mà Tin Mừng của Chúa bắt đầu được rao giảng, chúng ta cầu xin cho Tin Mừng được đón nhận và thay đổi được lòng dạ con người, đem đến cho con người niềm hạnh phúc đích thực.

Chúng ta dừng lại ở một câu trong bài thư của thánh Phaolô, mà rất nhiều lần chúng ta đã suy niệm : “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Bởi Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đã được chia sẻ chức năng tư tế, vương đế và ngôn sứ của Đức Kitô, nếu không thi hành chức năng đó, không thực hiện sứ vụ đó, chúng ta phản bội lại với chính ơn gọi của mình. Thánh Phaolô nghiệm thấy rằng nếu chỉ sống cho tôi mà không sống cho anh em của tôi, nếu tôi sinh ra trong một gia đình Công giáo mà anh chị em xung quanh vẫn chưa được biết Chúa, thì quả thật tôi chưa thi hành ơn gọi của mình.

Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân, trong cương vị, trong ơn gọi của mình phải loan báo, rao giảng Tin Mừng. Nhiều khi chúng ta cho rằng “tôi không có khả năng ăn nói, biết ít về giáol ý, không có phương tiện…” : những điều đó chỉ là cớ để chúng ta lười biếng, an phận, khép kín mình lại.

Hãy trở lại với bài Phúc âm, dừng lại ở một lời : “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Nếu suy niệm cầu nguyện và đem ra thi hành thì sẽ khám phá quả thật Lời Chúa là chân lý, là sự sống, Ngài luôn hiện diện giữa chúng ta, đồng hành với chúng ta và làm việc nơi mỗi người. Trong đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ khám phá, gặp gỡ, đón nhận được Ngài.

Lễ thánh Phanxicô Xaviê, trong tinh thần của toàn thể Giáo hội Việt nam hướng về  Năm Kim Khánh, kỷ niệm 50 năm thành lập hàng Giáo phẩm Việt nam, đặc biệt ba Giáo phận : Đàlạt, Mỹ tho và Long Xuyên cũng được thành lập vào dịp này cách đây 50 năm.

Chúng ta phải làm gì để hướng về năm 2010 ?

Nhà thờ Chánh tòa đây vừa mới sơn lại rất đẹp, rất sáng ; trong tháng tới, Giáo phận sẽ cung hiến 3 nhà thờ ; một số nơi đang đang chuẩn bị nhiều dự tòng được rửa tội vào dịp Noel… tất cả cũng trong chiều hướng đó, hướng về mừng Năm Thánh 2010.

Vậy anh chị em phải tự đặt cho mình một mục tiêu trong việc truyền giáo, mỗi người một cách : bệnh nhân trên giường bệnh, người làm việc nơi công sở, người buôn bán ngoài chợ búa… mỗi người phải ý thức sứ mạng truyền giáo là ơn huệ và là nghĩa vụ, phải ý thức hai điều đó trong đời sống, luôn biết tuân theo đường lối Chúa và luôn được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn.

Ngay sau Thánh lễ, Cha Tổng Đại diện Phaolô đã thay lời cho cộng đoàn dâng lên Đức Cha Phêrô, Quý Đức Cha, Quý Cha Giáo sư những tâm tình thật đơn sơ, chân thành :

Tứ Linh

Mục lục

 

THƯ CỦA ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN LONG XUYÊN THÔNG BÁO VỀ VIỆC BỔ NHIỆM VÀ THUYÊN CHUYỂN CÁC LINH MỤC TRONG DỊP CUỐI NĂM 2008

Kính gửi quý cha, quý tu sĩ và anh chị em giáo dân,

Anh chị em thân mến,

Tôi xin thân ái gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa trong giáo phận lời chào chúc bình an trong Chúa Kitô.

Trong vài năm gần đây, việc thuyên chuyển nhiệm vụ và nhiệm sở của các linh mục trong giáo phận theo giáo luật (Gl số 538, 1740, 1748) đang dần dần trở thành sinh hoạt bình thường của giáo phận. Cụ thể là việc thuyên chuyển đợt tháng 6.2008 vừa qua đã được quý cha và anh chị em giáo dân đón nhận với nhiều thái độ thiêng liêng tích cực dù có nhiều hy sinh, tiếc nuối, và nước mắt. Được như vậy là do cộng đồng dân Chúa trong giáo phận đã nhận thức ngày càng rõ ràng hơn về căn tính của linh mục triều là “được gọi chọn, được thánh hiến và được sai đi bởi Đức Giám Mục giáo phận”. Ngoài ra, anh chị em cũng đã ý thức về lợi ích mục vụ của việc chuyển đổi là nhu cầu sắp xếp nhân sự trong giáo phận để đem lại hiệu quả cao hơn cho các chương trình mục vụ và truyền giáo của giáo phận. Anh chị em cũng cảm nghiệm được lợi ích tu đức cho cộng đoàn giáo dân và cho chính linh mục nhờ việc chuyển đổi, vì đây là cơ hội để Dân Thiên Chúa, linh mục cũng như giáo dân, canh tân bản thân và cộng đoàn trong cuộc hành trình đức tin và ơn gọi.

Chính vì những lợi ích tu đức, mục vụ, và truyền giáo, nên với tư cách là Giám mục giáo phận, sau khi đã cầu nguyện, bàn bạc với các vị có trách nhiệm, với chính các linh mục liên hệ, và cũng có những trường hợp đã lắng nghe ý kiến của giáo dân, tôi đã quyết định việc bổ nhiệm và thuyên chuyển một số linh mục trong giáo phận như sau:

 

BA (03) CHA CỐ XIN NGHỈ HƯU:

1. Cha cố Phêrô Lê Văn Quan, sẽ hưu trí tại nhà hưu dưỡng Cần Xây, Giáo hạt Long Xuyên

2. Cha cố Đaminh Phạm Minh Quang, sẽ hưu trí tại giáo xứ Thanh Hải, kênh D2, Giáo hạt Vĩnh Thạnh,

3. Cha cố Antôn Giang Trung Thu, sẽ hưu trí tại giáo phận gốc Hưng Hóa. Ngài vẫn thuộc về linh mục đoàn giáo phận Long Xuyên.

Giáo phận xin tri ân quý cha cố đã cống hiến đời mình phục vụ giáo phận trong chức linh mục. Xin quý cha cố tiếp tục phục vụ giáo phận trong hoàn cảnh mới của tuổi tác và sức khỏe.

 

BA (03) CHA HẠT TRƯỞNG MÃN NHIỆM:

1. Cha Phêrô Lê Thành Đạo, Hạt trưởng giáo hạt Long Xuyên

2. Cha Đaminh Vũ Hồng Nho, Hạt trưởng giáo hạt Vĩnh Thạnh

3. Cha Gioan B. Trần Hữu Thịnh, Hạt trưởng giáo hạt Tân Hiệp

Giáo phận xin tri ân quý cha Hạt trưởng sắp mãn nhiệm. Xin Chúa trả công bội hậu cho quý cha, và xin quý cha tiếp tục góp phần xây dựng giáo phận trong nhiệm vụ mới.

 

NĂM (05) CHA HẠT TRƯỞNG NHIỆM KỲ MỚI (2009-2013):

Cha Phêrô Nguyễn Văn Mễn, Hạt trưởng hạt Long Xuyên

Cha Vinh Sơn Lê Văn Bằng, Hạt trưởng hạt Chợ Mới

Cha Phêrô Bùi Duy Tân, Hạt trưởng hạt Vĩnh Thạnh

Cha Giuse Vũ Đức Thận, Hạt trưởng hạt Tân Hiệp

Cha Phaolô Phạm Minh Trý, Hạt trưởng hạt Rạch Giá

Giáo phận đặt nhiều kỳ vọng vào sự cộng tác của quý cha Hạt trưởng nhiệm kỳ mới. Nhiệm kỳ mới 5 năm của quý cha Hạt trưởng sẽ bắt đầu từ 01/01/2009 đến hết ngày 31/12/2013.

 

QUÝ CHA CHUYỂN ĐỔI NHIỆM VỤ VÀ NHIỆM SỞ:

1. Cha Tổng Đại Diện Phêrô Lê Văn Kim, không còn là Cha Sở Nhà thờ Chính Tòa, chuyển sang Tòa Giám Mục.

2. Cha Luy G. Huỳnh Phước Lâm, Cha sở Nhà thờ Chính Tòa Long Xuyên, Giáo hạt Long Xuyên

3. Cha Giuse Đinh Quang Thành, Cha phó Nhà thờ Chính Tòa Long Xuyên, Giáo hạt Long Xuyên

4. Cha Giuse Nguyễn Hải Bằng, Cha sở giáo xứ Đất Hứa, Kiên Lương, Giáo hạt Rạch Giá, thay thế Cha Antôn Giang Trung Thu.

5. Cha Giuse Bùi Văn Đang, Cha sở giáo xứ Thanh Hải, kênh D2, Giáo hạt Vĩnh Thạnh, thay thế Cha Đaminh Phạm Minh Quang

6. Cha Phêrô Nguyễn Văn Mễn, Cha sở Nhà thờ Năng Gù, Giáo hạt Long Xuyên, thay thế Cha Phêrô Lê Văn Quan.

7. Cha Hiêrônimô Vũ Văn Tác, Cha sở giáo xứ Mỹ Thạnh, Vàm Cống, Giáo hạt Long Xuyên.

8. Cha Giuse Đặng Văn Rao, Cha sở giáo xứ Thanh Long, kênh D1, Giáo hạt Vĩnh Thạnh.

9. Cha Phêrô Trương Công Đam, Cha sở giáo xứ Thái Hòa, kênh Rivera, Giáo hạt Tân Hiệp.

10. Cha Giuse Phạm Minh Ngọc, Cha sở giáo xứ Đaminh, kênh 10, Giáo hạt Tân Hiệp.

11. Cha Vinh Sơn Vũ Duy Nghiệm, Cha phó biệt lập giáo họ Thánh Tâm, kênh 3A, Giáo hạt Tân Hiệp.

12. Cha Giuse Nguyễn Đức Triêm, Cha sở giáo xứ Núi Tượng, Giáo hạt Long Xuyên.

13. Cha Phaolô Trần Văn Khoa, Cha sở giáo xứ Trái Tim, Giáo hạt Long Xuyên.

14. Cha Micae Phạm Tất Thắng, Cha phó giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Hòn Đất, Giáo hạt Rạch Giá.

15. Cha Phêrô Bùi Thanh Tâm, Cha sở giáo xứ Cản Đá, Giáo hạt Long Xuyên.

16. Cha Antôn Võ Ngọc Thâu, Cha sở giáo xứ Chợ Thủ, Chợ Mới, Giáo hạt Chợ Mới.

17. Cha Đaminh Vũ Hồng Nho, Cha sở giáo xứ Trinh Vương, Bờ Bao, Giáo hạt Vĩnh Thạnh.

18. Cha Gioan B. Trần Quang Trung, Cha sở giáo xứ Thánh Linh, kênh D1, Giáo hạt Vĩnh Thạnh.

19. Cha Giuse Vũ Đức Hước, Cha sở giáo xứ Kim Hòa, kênh G1, Giáo hạt Vĩnh Thạnh.

20. Cha Giuse Phạm Hồng Nhật, Cha sở giáo xứ Hải Hưng, kênh C1, Giáo hạt Vĩnh Thạnh.

21. Cha Phêrô Bùi Duy Tân, Cha sở giáo xứ Thạnh An, Giáo hạt Vĩnh Thạnh.

22. Cha Đaminh Nguyễn Văn Thược, quản sở giáo họ Bình An, Mong Thọ, Giáo hạt Rạch Giá.

23. Cha Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh, Cha sở giáo xứ Mong Thọ, Giáo hạt Rạch Giá, giám đốc Trung Tâm Mục Vụ giáo hạt Rạch Giá.

24. Cha Vinhsơn Phaolô Phạm Thế Hòa, Cha sở giáo xứ Vinh Sơn, kênh 0, Giáo hạt Tân Hiệp.

 

Anh chị em thân mến,

Với linh mục đoàn, tôi xin quý cha, vì đức ái mục tử, hãy đón nhận những quyết định và bổ nhiệm của Đức Giám Mục trong sự hiệp thông và đồng trách nhiệm của những người đang đồng hành bước theo Chúa Kitô, Đấng đã nói: “tôi đến không phải để làm theo ý tôi mà là làm theo ý Đấng đã sai tôi”.

Với quý cha liên hệ trong việc thuyên chuyển, tôi thiết tha xin quý cha đón nhận những quyết định trên với tinh thần tự hủy của Đức Kitô, “Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2,11), để trở thành linh mục, của lễ và bàn thờ.

Với các cộng đoàn dân Chúa có liên hệ đến việc chuyển đổi, tôi rất ước mong anh chị em đón nhận những quyết định của Đức Giám Mục giáo phận với sự trưởng thành của đức tin, đức cậy, và đức mến, được phiên dịch thành những thái độ vâng phục, yêu thương và cộng tác. Đây là cách anh chị em đang giúp các linh mục của Chúa Kitô và của Hội Thánh thực hiện lời thề hứa vâng phục Đức Giám Mục trong thánh lễ truyền chức. Xin anh chị em đón nhận các linh mục được sai đến với anh chị em như những sứ giả của Thiên Chúa đến hiện diện giữa anh chị em, và như những vị đại diện của Đức Giám Mục được sai đến để phục vụ anh chị em.

Và tôi xin toàn thể cộng đoàn dân Chúa thể hiện nền tu đức của Hội Thánh Long Xuyên với niềm xác tín “Chúa Kitô trong anh em – Christus in Vobis”, với động lực “Giới răn mới – Mandatum Novum” và với định hướng “Hiệp Nhất – Ut Sint Unum” trong cuộc thuyên chuyển này.

Chúng tôi, Đức Cha Cố Micae, Đức Cha Gioan Baotixita, và tôi, xin ban phép lành cho anh chị em và cầu chúc anh chị em Mùa Vọng sốt sắng, đầy ân sủng.

 

Thân ái

 

Long Xuyên, ngày 14/11/2008

Giuse Trần Xuân Tiếu

Giám mục Giáo phận Long Xuyên

 ( ấn kí)

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Thư Mục vụ 2008 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa về Môi trường Giáo dục Gia Đình Công Giáo

Kính gửi Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam

LỜI MỞ

1- Chúng tôi, Hồng y, Tổng Giám mục và Giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, xin gửi tới anh chị em lời chào thân ái và lời cầu chúc bình an trong Chúa Kitô.

2- Ý thức sứ mạng giáo huấn được trao phó cho những chủ chăn, dịp Đại hội của Hội đồng Giám mục lần thứ X năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đã gửi đến anh chị em Thư Chung với chủ đề “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội ngày mai”. Chúng tôi vui mừng thấy Thư Chung này đã được đón nhận và áp dụng với những sáng kiến phong phú tại các Giáo phận. Xin cám ơn anh chị em đã nhiệt tình hưởng ứng lời mời gọi của chúng tôi để cộng tác phần mình vào nền giáo dục đức tin và văn hóa, nhằm xây dựng Giáo Hội và xã hội Việt Nam, hôm nay và tương lai.

3- Tiếp nối tinh thần Thư Chung 2007 về giáo dục Kitô giáo, năm nay chúng tôi mời gọi anh chị em hãy cùng với chúng tôi suy tư và hành động để góp phần chấn chỉnh môi trường giáo dục tại gia đình (x. Thư Chung 2007, số 38). Giáo dục tại gia đình là vấn đề quan trọng và cần thiết, tạo tiền đề cho việc phát triển nền giáo dục nói chung, vì gia đình là nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Nếu nền tảng gia đình được củng cố chắc chắn, Giáo Hội và xã hội tương lai sẽ phồn thịnh và phát triển. Qua Thư Mục vụ này, chúng tôi muốn bày tỏ mối ưu tư đối với hiện trạng gia đình Việt Nam và nêu lên những đề nghị cụ thể để góp phần canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và đời sống Giáo Hội.

I- NỀN TẢNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIA ĐÌNH

4- Gia đình trong ý định của Thiên Chúa là nơi giáo dục tình yêu.

Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8). Chính vì yêu thương mà từ hư vô Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài để thông ban cho họ vinh quang vĩnh cửu. Ngài dựng nên con người có nam có nữ, tuy khác biệt về phái tính nhưng hoàn toàn bình đẳng với nhau và bổ túc cho nhau. Ngài ban cho họ có khả năng yêu mến để hướng về những ước vọng chân chính tốt lành. Nơi đời sống hôn nhân, tình yêu liên kết người nam và người nữ cách mật thiết đến nỗi họ không còn phải là hai, mà chỉ là một xương một thịt. Tình yêu hôn nhân còn phản ánh chính tình yêu của Thiên Chúa và được Chúa chúc lành.

5- Gia đình là mái trường đầu tiên của Con Thiên Chúa nhập thể.

Khi sinh xuống trần gian, Đức Giêsu đã sống trong một gia đình. Người có một quê hương, có cha có mẹ và hàng xóm láng giềng. Những người đồng hương biết rõ Người là “con bác thợ mộc“ và “mẹ Người là bà Maria“ (Mt 13,55). Thánh Giuse và Đức Maria đã nuôi dưỡng và giáo dục Hài Nhi Giêsu ngay từ lúc chào đời. Chính trong khung cảnh gia đình, Đức Giêsu đã học những bài học căn bản về đời sống đức tin và văn hóa. Về phần Đức Giêsu, “Người tuân phục hai ông bà” (Lc 3,51). Có thể nói, lối giáo dục của Thánh Giuse và Đức Maria đã góp phần làm phong phú lời giảng dạy của vị Ngôn sứ thành Nadarét sau này. Người đã vận dụng những ca dao tục ngữ, những hình ảnh bình dân của nền văn hóa địa phương để rao giảng Nước Trời. Như thế, gia đình Nadarét cho thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc giáo dục. Thánh Gia thất chính là mẫu gương cho các gia đình, nhất là những người làm cha mẹ, trong mọi nền văn hóa và môi trường xã hội.

Là Con hiếu thảo của một gia đình, Đức Giêsu cũng là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã xác nhận điều đó: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5). Người luôn lo lắng chu toàn sứ mạng của Chúa Cha, từ thời niên thiếu, khi ở lại trong Đền Thờ giữa các bậc tiến sĩ, cho đến giờ phút khổ nạn thập giá. Đức Giêsu đã luôn thể hiện ý Chúa Cha trong lời nói cũng như việc làm. Vâng phục thánh ý Chúa Cha chính là lương thực của Người (x.Ga 4,34).

6- Gia đình diễn tả tình yêu giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội

Trong Cựu Ước, các Ngôn sứ thường mượn hình ảnh hôn nhân để diễn tả mối liên kết giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Sau này, Thánh Phaolô còn cụ thể hơn khi dùng hình ảnh khế ước tình yêu nam nữ để diễn tả mối gắn bó giữa Đức Giêsu và Giáo Hội (x. Ep 5,21 tt). Hôn nhân công giáo được nâng lên hàng bí tích, trở thành dấu chỉ và khí cụ của tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Đó là tình yêu quảng đại, hy sinh và hiến mạng sống vì người mình yêu. Vì thế, như Đức Kitô đã làm gương qua việc Người hiến mình vì Giáo Hội, tình nghĩa vợ chồng phải được xây dựng trên mẫu mực nền tảng đó. Đức Gioan Phaolô II nhắc lại điều này trong Tông huấn về gia đình: “Hôn nhân của những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy trở nên biểu tượng thật của giao ước mới và vĩnh cửu được ký kết trong máu Đức Kitô. Thánh Thần mà Chúa Cha đã đổ tràn xuống, ban cho họ một trái tim mới và làm cho cả người nam và người nữ có khả năng yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta” (Tông huấn Gia Đình, số 13).

7- Gia đình là môi trường giáo dục tình hiệp thông.

"Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là cộng đồng các ngôi vị: đôi bạn nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông..." (Tông huấn Gia Đình, số 18). Mối hiệp thông này được củng cố và phát triển nhờ tình tương thân tương ái và nhờ sự nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống nhân bản cũng như đời sống đức tin. Quả vậy, nếu mọi thành viên trong gia đình sống thuận hòa và đùm bọc lẫn nhau, gia đình sẽ trở nên ấm cúng. Tình hiệp thông giữa các thành viên trong một gia đình sẽ góp phần củng cố gia đình nhân loại và gia đình Thiên Chúa, tức là Giáo Hội.

8- Gia đình là mái trường giáo dục lòng hiếu thảo và thờ phượng Thiên Chúa

Luật Cựu Ước đã đề cập đến lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ngay sau khi nói đến bổn phận thờ phượng của con người đối với Thiên Chúa trong ba giới răn đầu. Điều đó cho thấy tình tương thân tương ái trong gia đình đi liền với việc tôn thờ Thiên Chúa. Nói cách khác, hiếu thảo với các bậc sinh thành dưỡng dục là bổn phận quan trọng chỉ đứng sau việc thờ phượng Thiên Chúa. Tiếp đó, các tác giả văn chương khôn ngoan đã ca tụng những người con hiếu thảo. Hiếu thảo không chỉ là việc đền đáp nghĩa sinh thành, nhưng còn vì “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu… ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3, 3-6). Có thể nói, việc tôn thờ Chúa bảo đảm cho hạnh phúc gia đình và việc thảo kính cha mẹ là bổn phận thiết yếu đối với những ai yêu mến Chúa và muốn nên trọn lành. Gia đình chính là chiếc nôi ấp ủ, là mái trường đào tạo con người biết thực hành bổn phận cao quý này.

II- GIA ĐÌNH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM HÔM NAY

9- Nhận định chung

Xã hội Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang chuyển mình cách mạnh mẽ với những thay đổi tích cực nhưng cũng với những mất mát to lớn, trong đó đáng kể nhất là những giá trị cơ bản liên quan đến sự bền vững của hôn nhân–gia đình và tình liên đới giữa các thành viên. Xin anh chị em cùng với chúng tôi nhận định về tình trạng gia đình Việt Nam trong xã hội hôm nay để tìm ra hướng đi mục vụ đáp ứng những nhu cầu thiết thực và cấp bách này.

10- Những khủng hoảng gia đình.

Là người Việt Nam, chúng ta tự hào về một truyền thống gia đình trên thuận dưới hòa, trong đó lòng hiếu thảo có vị trí quan trọng đối với đời sống gia đình và xã hội. Có thể nói đó là một yếu tố căn bản để con người có thể thành nhân và thành tài. Nhưng truyền thống tốt đẹp đó đang có nguy cơ bị xói mòn và mai một. Có những gia đình đang trở thành một thứ quán trọ thay vì là tổ ấm yêu thương. Cĩ nhiều người cao tuổi bị con cái bỏ rơi, không nơi nương tựa. Nạn bạo hành gia đình còn khá phổ biến, đặc biệt nhiều phụ nữ chưa được tôn trọng và yêu thương xứng đáng với phẩm giá con người. Tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng và hậu quả là những trẻ em thất học, trẻ em bỏ nhà đi bụi đời ngày càng nhiều. Những phương tiện thông tin đề cập thường xuyên đến nhiều vụ việc tội phạm mà cả nạn nhân và hung thủ đều là vị thành niên. Phần lớn những em này đều xuất thân từ những gia đình bất hòa, ly tán và đổ vỡ. Cùng với những mâu thuẫn và khủng hoảng gia đình, những con số thống kê cho thấy nạn phá thai càng ngày càng nghiêm trọng, ngay cả nơi những em còn ở độ tuổi học trò. Cùng với những hậu quả tất yếu về thể lý, hành động phá thai đã để lại những vết thương tâm lý thê thảm nơi đương sự và những người có liên quan.

11- Gia đình trước ảnh hưởng của toàn cầu hóa và di dân.

Cuộc sống của người Việt Nam trước đây gắn liền với nông thôn. Mọi sinh hoạt xã hội, kinh tế, văn hoá và tôn giáo đều diễn ra trong phạm vi“lũy tre làng’’. Trong các Giáo xứ, việc dạy giáo lý, hoạt động từ thiện bác ái, sinh hoạt phụng tự có thể tổ chức sắp xếp rất thuận lợi. Người giáo dân có nhiều cơ hội gặp gỡ và chia sẻ trong nhiều lãnh vực khác nhau. Các thành viên trong một gia đình luôn ở bên cạnh nhau trong mọi sinh hoạt. Sự gần gũi thường xuyên như thế giúp mọi người có thể nhắc nhở, động viên nhau sống đạo cách dễ dàng và hiệu quả. Như vậy, môi trường Giáo xứ miền quê là một môi trường thuận lợi cho các mối quan hệ liên bản vị và cho nền giáo dục Kitô giáo.

Môi trường đó nay đang dần dà thay đổi trước làn sóng đô thị hoá và công nghiệp hoá. Ngày càng có nhiều người rời nông thôn để tìm việc làm tại các đô thị, phần lớn trong số này là giới trẻ. Những người di dân là sinh viên, học sinh, công nhân, những người buôn bán nhỏ và còn nhiều thứ dịch vụ khác. Cũng vì cuộc sống, có nhiều người đi lao động hoặc nhiều phụ nữ đi làm dâu tại nước ngoài. Họ phải đối diện với rất nhiều khó khăn để hội nhập vào một nền văn hóa mới, có những phong tục tập quán hoàn toàn xa lạ với nền văn hóa của quê hương, đặc biệt xa lạ với đời sống gia đình công giáo Việt Nam. Họ rất vất vả trong cuộc vật lộn mưu sinh, không còn thời gian dành cho đời sống thiêng liêng. Trong hoàn cảnh đó, quan niệm về tình yêu hôn nhân, về đời sống gia đình cũng bị biến dạng. Đã xuất hiện những trào lưu thiếu lành mạnh và sai lầm như sống thử, sống ngoài hôn nhân và tự do ly dị. Đã và đang tồn tại những gia đình tan vỡ khi vợ hoặc chồng đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Quan tâm đến những người di dân là một hình thức mục vụ mới đối với Giáo Hội Việt Nam hôm nay.

12- Hậu quả của một nền giáo dục còn nhiều khiếm khuyết.

Trước sự kiện hàng loạt những vụ việc tiêu cực có liên quan đến ngành giáo dục được công bố, đã có nhiều người lên tiếng kêu gọi chú trọng đến chất lượng thực thụ của sự nghiệp trồng người. Một nền giáo dục chỉ lo đến bằng cấp, chỉ phấn đấu để được điểm thi đua mà không chăm lo đến “tiên học lễ, hậu học văn“ sẽ tạo ra một thế hệ thiếu trung thực và bất tài. Chính vì thiếu khía cạnh “lễ“ mà truyền thống tôn sư trọng đạo đang bị mai một, và hậu quả là bạo lực tràn lan trong học đường. Những học sinh ở tuổi thơ ngây đã trở thành thủ phạm của biết bao tội ác, cá nhân cũng như tập thể. Nhà trường đáng lẽ là nơi đào tạo những chủ nhân tương lai biết tôn trọng sự thật, đôi khi lại là môi trường cho các em học sự gian dối. Một số phụ huynh có những hành động phản giáo dục như mua điểm mua bằng cho con em, hoặc luồn lách để được lên lớp. Điều này đã tạo cơ hội cho trẻ em bắt chước sự dối trá. Đó là một trong những thảm kịch nghiêm trọng đe doạ tương lai của Giáo Hội, xã hội và dân tộc Việt Nam.

III- MỘT SỐ CHỈ DẪN MỤC VỤ

13- Như chúng tôi đã đề cập trong Thư Chung 2007, giáo dục Kitô giáo là trách nhiệm của mọi người và từng người. Đối tượng mà nền giáo dục Kitô giáo nhắm tới cũng là mọi thành phần xã hội, không loại trừ ai. Sau khi đã cùng nhìn lại toàn cảnh tình hình gia đình Việt Nam hôm nay, chúng tôi đề nghị một số thực hành giáo dục khởi đi từ lãnh vực gia đình, vì gia đình là trường học đầu tiên, nơi hình thành nhân cách và là nơi định hướng cho tương lai của một con người.

14- Gia đình và việc giáo dục đức tin.

"Cha mẹ được mời gọi để biến tình thương con cái thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa là "nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời đưới đất" (Ep 3,15)" (Tông Huấn Gia Đình, số 14). Thiên chức làm cha mẹ nhắn nhủ những bậc phụ huynh có trách nhiệm thông truyền đức tin cho các thế hệ kế tiếp. Chính cha mẹ là những giáo lý viên đầu tiên cho con cái. Hãy giới thiệu cho con cái biết Thiên Chúa ngay khi con còn bé qua những lời nguyện bập bẹ đơn sơ và cử chỉ đơn giản (làm dấu Thánh Giá, vòng tay, cúi đầu...). Những lời cầu nguyện ngắn gọn, những nội dung giáo lý căn bản, những câu chuyện lấy từ Thánh Kinh, nếu được cha mẹ ân cần chỉ bảo, sẽ tạo nơi các em một nền tảng giáo lý vững chắc và một đời sống thiêng liêng sâu đậm sau này. Trách nhiệm của cha mẹ không dừng lại ở đó, mà còn thể hiện qua việc hướng dẫn, nhắc nhở con em mình đi học giáo lý, tham gia các hội đoàn đạo đức để trưởng thành hơn trong đời sống đức tin.

Hình ảnh một gia đình công giáo Việt Nam được ghi đậm nét do việc mọi thành viên cùng cầu nguyện chung với nhau. Giờ cầu nguyện chung giúp các thành viên trong gia đình gần gũi và có trách nhiệm với nhau hơn. Cầu nguyện chung là yếu tố quan trọng giúp hòa giải những mâu thuẫn gia đình và làm cho mọi người dễ tha thứ cho nhau.

Sinh hoạt đạo đức này đang bị mai một vì nhiều lý do, nhất là vì công việc, vì học hành, vì không cùng tôn giáo trong một gia đình, vì ham mê giải trí. Chúng tôi kêu gọi anh em Linh mục, các bậc phụ huynh và những cộng sự viên tông đồ hãy nhiệt thành cổ võ và khôi phục việc đọc kinh tại gia đình. Những câu kinh lời nguyện, những bài đọc Lời Chúa, nếu được thực hiện thường xuyên trong gia đình sẽ tạo nơi giới trẻ một thói quen cầu nguyện. Những thực hành đạo đức ấy sẽ theo các em suốt đời, kể cả khi các em rời xa gia đình để sống tại một môi trường khác. Lời cầu nguyện mỗi ngày vang lên từ gia đình, sẽ làm tăng thêm hạnh phúc và niềm vui, vì qua những sinh hoạt đạo đức này, chúng ta làm cho gia đình trở nên đền thờ của Thiên Chúa Tối Cao.

15- Gia đình và việc giáo dục đức ái.

Với những khủng hoảng gia đình trong xã hội hôm nay, chúng ta cần ý thức rằng từ ban đầu gia đình là cấu trúc của tình yêu và gia đình theo đúng thánh ý Chúa phải tồn tại và phát triển trong tình yêu. Do đó gia đình phải là môi trường giáo dục đặc biệt về tình yêu. Giáo dục đức tin phải đi đôi với giáo dục đức ái. Cần giáo dục tình yêu cho con cái biết yêu thương hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, biết yêu thương kính trọng bà con họ hàng, biết yêu thương và kính trọng mọi người. Cũng cần giáo dục con cái biết yêu thương, tôn trọng, nâng đỡ và hy sinh cho nhau. Con người không biết sống yêu thương trong gia đình thì không thể biết sống yêu thương đúng nghĩa trong các môi trường xã hội. Việc giáo dục tình yêu cần phải kiên nhẫn và nhất là cần đến gương yêu thương giữa cha mẹ, giữa vợ chồng. Gương mẫu của giáo dục tình yêu chính là Thánh Gia, cao hơn nữa chính là gương Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ Hội Thánh, yêu thương và hy sinh đến chết vì mỗi người chúng ta. Thật lý tưởng khi mọi thành viên trong gia đình đều cảm nhận sâu xa là mình được mọi người trong gia đình yêu thương và tình yêu của mình được mọi người đón nhận, đáp trả.

16- Gia dình và việc dạy con cái sống theo lương tâm và sự thật.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI khẳng định rằng: “Nếu tiến bộ kỹ thuật không đi đôi với tiến bộ trong việc giáo dục đạo đức con người, trong sự tăng trưởng con người nội tâm, thì đó chẳng phải là một sự tiến bộ, nhưng lại là một mối đe dọa đối với con người và thế giới“ (Thông điệp Spe Salvi, số 22). Theo đó, lương tâm ngay chính và đời sống nội tâm sâu xa là yếu tố căn bản cho sự bền vững và phát triển của xã hội. Những hoạt động xã hội, văn hóa, chính trị đều phải xây dựng trên nền tảng lương tâm ngay chính mới mang lại hiệu quả tích cực. Gia đình là môi trường quan trọng và không thể thay thế cho việc huấn luyện này. Người cha người mẹ chính là những nhà huấn luyện lương tâm cho thế hệ tương lai.

Để cho việc huấn luyện lương tâm có hiệu quả, cần phải có sự cộng tác của mọi thành phần Giáo Hội và xã hội, vì xã hội được coi như sự nối dài của gia đình trong sứ mạng giáo dục. Thật là mâu thuẫn nếu trong nhà cha mẹ dạy con thật thà mà ra khỏi gia đình cha mẹ lại gian lận dối trá đối với những người xung quanh. Gương sáng của cha mẹ và những bậc cha anh đóng vai trò quan trọng để giáo dục lương tâm cho những thế hệ nối tiếp. Dân tộc và Giáo Hội Việt Nam trong tương lai sẽ ra sao nếu thế hệ hôm nay bàng quan nhắm mắt trước sự man trá lừa lọc? Đó là câu hỏi khiến cho các bậc phụ huynh, các giới hữu trách giáo dục phải đặt ra một cách nghiêm túc để kịp thời tìm biện pháp cứu vãn tình thế.

17- Gia đình và việc giáo dục các đức tính nhân bản.

Do đời sống công nghiệp và đô thị phát triển, con người thời nay có nguy cơ sống khép kín, thiếu tình yêu và thiếu quan tâm đến tha nhân. Gia đình là môi trường thuận lợi giúp cho các thành viên sống tình liên đới, vị tha, hài hòa và quảng đại.

Khi chú trọng giáo dục cho con cái những đức tính nhân bản như khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ, các bậc phụ huynh đang huấn luyện con cái mình “thành người“. Giáo dục nhân bản còn nhằm huấn luyện con người có trách nhiệm đối với tha nhân và công ích, góp phần bảo vệ và phát triển cuộc sống xã hội, tôn trọng thiên nhiên, cổ võ những hoạt động bác ái. Việc vận động mọi thành viên trong gia đình cùng tham gia vào mọi sinh hoạt văn hóa lành mạnh, cũng là đường lối sư phạm cụ thể và hiệu quả để giáo dục nhân bản cho thế hệ tương lai.

18- Gia đình và sứ mạng tôn trọng, bảo vệ sự sống.

Thánh Kinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ngài chia sẻ và thông ban sự sống cho con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài (x. St 1,27). Chính Thiên Chúa chúc lành và nâng niu sự sống con người ngay từ lúc vừa được hình thành trong lòng mẹ. Đến lượt mình, con người được cộng tác với Thiên Chúa để thông ban sự sống mình đã nhận. Mặc dù có khả năng thông truyền sự sống, con người không có quyền hủy hoại sự sống của mình. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Sự sống của con người là thánh thiêng, nó mang tính bất khả xâm phạm được khắc ghi trong lòng người, trong lương tâm con người“ (Thông điệp Tin Mừng sự sống, số 40). Vì sự sống là ân ban của Thiên Chúa, là vốn quý giá nhất của đời người, nên ’Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ một cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai“ (Sách GLGHCG, số 2270). Con người dù đẹp hay xấu, dù thông minh hay tối dạ, đều là người đã được Thiên Chúa dựng nên và được Ngài yêu thương. Sự sống của người ấy nằm trong tay Thiên Chúa và Con Thiên Chúa đã chết trên thập giá cho người ấy. Do đó, những can thiệp của khoa học nhằm lựa chọn giới tính, những hành vi giết người như phá thai, làm chết êm dịu... đều đi ngược với phẩm giá con người và chống lại Thiên Chúa, vì chúng biến con người thành một thứ hàng hóa hay một sản phẩm thay vì là một sinh linh cao quý mang hình ảnh của Đấng Tối Cao. Những lớp giáo lý hôn nhân cần phải giúp học viên hiểu rõ giáo huấn này. Các bậc làm cha mẹ cũng cần phải hiểu biết để dạy con cái mình tôn trọng sự sống.

19- Năm Thánh Phaolô và giáo dục gia đình.

Nói về giáo dục gia đình, chúng ta không thể không nhắc đến Thánh Phaolô, đặc biệt năm nay Giáo hội kỷ niệm sinh nhật thứ 2000 của Ngài. Giáo huấn của Thánh Phaolô về gia đình mở ra cho ta những chân trời mới khi mặc cho gia đình những chiều kích sâu xa: chiều kích Ba Ngôi và vĩnh cửu.

Theo Thánh Phaolô, mỗi một con người ra đời được kêu gọi vào sự sống “trong chân lý và tình yêu’’ (Ep 4,15). Sự kêu gọi đó không chỉ liên hệ đến cuộc sống trần gian nhưng còn hướng tới sự sống vĩnh cửu. Thiên Chúa Cha chính là nguồn gốc của mọi gia tộc trên trời dưới đất, là tình phụ tử mẫu mực tuyệt hảo (x.Ep 3,14-15). Mang mẫu mực tuyệt hảo đó trong mình, Kitô hữu, xuất phát từ gia đình, lên đường xây dựng một nền văn minh tình thương nhờ tình yêu “Thánh Thần đổ lai láng trong lòng chúng ta’’ (Rm 5, 5), giúp con người có thể kiên tâm phục vụ và “chịu đựng tất cả’’ (1 Cr 13, 7). Tuyệt vời hơn cả là nhờ Đức Kitô, nền giáo dục của con người được diễm phúc mang chiều kích cứu độ và đạt đến đỉnh điểm của nhân tính nơi mầu nhiệm Phục sinh (x.Ep 3, 14-15).

Với những lời khuyên chi tiết cho từng thành viên của gia đình trong thư gửi cộng đoàn tín hữu Êphê-sô (x. Ep 5-6), Thánh Phaolô cho chúng ta thấy một quan niệm và giáo huấn của Ngài về h?nh phc gia đình. Một gia đình có nề nếp, trên kính dưới nhường không những chỉ là một tổ ấm yêu thương, mà còn phản ánh tình yêu của Đức Kitô đối với Giáo Hội. Các thành viên trong gia đình cần hy sinh cho nhau, trong tâm tình của Đức Giêsu Đấng đã hy sinh và hiến mình cho Giáo Hội. Đó là khởi điểm của hạnh phúc và là điều kiện để đạt tới sự trọn lành.

Tóm lại, theo Thánh Phaolô, qua gia đình và giáo dục theo tinh thần Tin Mừng, con người vừa xây dựng xã hội trần gian cách tích cực, vừa chu toàn được sứ mệnh xây dựng Giáo Hội và cuối cùng được siêu thăng cùng với Đức Kitô toàn thắng.

LỜI KẾT

20- Với những điều nói trên, chúng tôi mời gọi mọi thành phần Dân Chúa hãy cộng tác trong việc vun trồng những thế hệ tương lai. Nếu gia đình là nhân tố quyết định sự tồn vong của Giáo Hội và xã hội, thì việc đầu tiên chúng ta phải nghĩ tới là củng cố và thăng tiến gia đình, để bảo đảm cho hôn nhân và gia đình có được sức sống yêu thương tràn đầy và sự thăng tiến về nhân bản cũng như lòng đạo đức.

Chúng ta phó thác những dự tính mục vụ năm nay noi lời bầu cử của Thánh Cả Giuse và Đức Maria. Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nazareth mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta.

Kính chúc anh chị em được tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa, luôn hạnh phúc và bình an.

Hà Nội ngày 05 tháng 12 năm 2008

TM/HĐGMVN
+GM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch

+GM Giuse Ngô quang Kiệt, Tổng thư ký

Ghi chú:

Trong Năm Thánh Phaolô và theo lời khuyến khích của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới về “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội “, chúng tôi ghi lại một số bài đọc Lời Chúa trích từ các thư của Thánh Phaolô, để anh chị em có thể đọc, suy gẫm và cầu nguyện cho đời sống hôn nhân và gia đình:

- Rm 8, 31-39. “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô “.

- Rm 12, 1-2.9-18. “Hãy hiến thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa “.

- Rm 15,1-3.5-7.13. “ Anh em hãy đón tiếp nhau như Đức Kitô đã đón tiếp anh em “.

- 1 Cr 6,13- 20. “ Thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần “.

- 1 Cr 12,31-13,8.“ Nếu tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi “.

- 1 Cr 13, 4-13. “ Bác ái tin mọi sự, chịu đựng mọi sự “.

- Ep 4, 1-6. “ Chỉ có một thân thể và một linh khí “.

- Ep 5,2.21-33. “ Mầu nhiệm này thật lớn lao; tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh “.

- Pl 2, 1-5. “ Hãy có cùng một cảm nghĩ “.

- Pl 4, 4-9. “ Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em “.

- Cl 3,12-17. “ Trên hết những điều ấy, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây liên kết điều toàn thiện “.
- Dt. 13,1- 6. “ Mọi người hãy tôn trọng hôn nhân”.

+GM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Mục lục

 

CON ĐƯỜNG ĐÓN TÌNH YÊU

 “Có tiếng hô trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa…”( Is 40,3 ) Những lời của ngôn sứ Isaia nào được thánh sử Maccô lấy lại để mở đầu cho sách Tin mừng của Ngài: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mc 1,3 ). Đấng mà chỉ bằng một lời đã dựng nên trời đất muôn vật, Đấng mà không có sự gì là không thể, lại gặp phải khó khăn khi muốn đi vào lòng con người đến nỗi cần phải có một con đường được chuẩn bị. Một hệ luỵ tất yếu vì Người đã dựng nên con người và đã ban cho nó có ý chí tự do. “ Thiên Chúa có thể dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi” (Thánh Âugustinô ).

Khi yêu ai thì người ta không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách để làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa đã được ngôn Isaia loan báo rằng Chúa đã tha thứ tội lỗi cho dân Người. Thời nô lệ của dân sẽ chấm dứt. Và “như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cùng tận tình dẫn dắt” ( Is 40,11 ). Gioan Tiền Hô rao giảng rằng Ngài chỉ làm phép rửa bằng nước còn Đấng đến sau Ngài sẽ thanh tẩy dân bằng Thánh Thần, tức là bằng chính Tình Yêu của Chúa.

Chẳng còn gì mà Chúa đã không làm cho chúng ta. Đấng là Tình Yêu, không ngại ngần phú ban chính Con Một vì chúng ta. ( x.Ga 3,16-18 ). Dù có thể làm được mọi sự cho chúng ta, thế mà Chúa vẫn như bị giới hạn. Tình yêu giả thiết có sự tự do đáp trả. Tuân thủ hệ quả ấy, “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.” ( Kh 3,20 ).

Để cho tình yêu đơm hoa, kết trái, Chúa chờ đợi sự đáp trả của loài người chúng ta. Và một trong những cách thế đáp trả tình yêu của Chúa mà Lời Chúa trong Chúa Nhật II Mùa Vong B mời gọi chúng ta, đó là hãy mở cho Chúa một con đường. Nói đến con đường là nói đến lối đi, cách bước, đúng hơn là nói đến đường đời của chúng ta, cách sống của chúng ta.

“Đồi cao hãy san cho bằng; hố sâu hãy lấp cho đầy…” Những cách diễn tả trên chỉ muốn nhắm mục đích là sửa đường cho ngay và bằng phẳng. Rất có thể có nhiều cách diễn giải mang chiều kích luân lý như là dẹp bỏ sự kiêu căng, cao ngạo, loại trừ những hố sâu ích kỷ, tham lam hay chia rẽ…Đã hẳn cần phải có những sửa đổi trong cách sống của con người, tuy nhiên điều quan trọng và cốt yếu đó là tấm lòng của chúng ta. Đó phải là một tấm lòng khiêm hạ chân thành. Một tấm lòng chân thành trong khiêm hạ là một tấm lòng trung thực, ngay thẳng. Chúa đến để tỏ bày tình yêu với chúng ta, cho chúng ta. Tình yêu đòi hỏi trước tiên sự ngay thẳng và trung thực. Sẽ chẳng còn là tình yêu khi có yếu tố gian dối xen vào. Chính vì thế để mở cho Chúa một con đường, chúng ta cần phải:

Trung thực, thẳng thắn với chính mình: Mình có sao, mình ra sao thì nhìn nhận vậy. Con người chúng ta vốn thích kẻ khác có cái nhìn tốt đẹp về mình, muốn kẻ khác luợng giá cao về mình. Vì thế chúng ta rất dễ bị cám dỗ thoa son, tô phấn cho bản thân. Và dần dà người ta đâm ra ảo tưởng về chính mình hoặc có cái nhìn không thật, không đúng về bản thân. Cái cám dỗ này này càng mạnh lên mỗi khi chúng ta đã có thêm chút tiền, chút quyền hay chút địa vị.

Rất nhiều lần xét mình, chúng ta thoáng nhận ra con người thật của mình với bao là tham sân si. Ta sám hối ăn năn, ta quyết tâm sửa mình, nhưng rồi đâu lại hoàn đấy. Bệnh thì dễ chửa, nhưng tật thì khó chừa. Sự tái phạm lỗi lầm nhiều lần cũng làm chúng ta dễ có cái nhìn lệch lạc về bản thân. để có được cái nhìn trung thực về mình thiết tưởng cần đào tạo lương tâm liên lĩ. Các nhà luân lý chỉ cho ta những cách thế để đào tạo lương tâm như là tích cực học hỏi; kiên quyết chừa tội và từ bỏ nết xấu; xa lánh các môi trường xấu, những lý thuyết lầm lạc; siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích giao hoà…

Trung thực với tha nhân: Dù biết rằng ta có thể dối lừa một người nhiều lần, có thể dối lừa nhiều người một đôi lần, nhưng ta không thể lừa dối nhiều người nhiều lần, thế mà để can đảm sống thật như chính mình trước mặt tha nhân quả là không mấy dễ. Cái nhìn của tha nhân, cái quan niệm của xã hội bên cạnh mặt tích cực vẫn có mặt tiêu cực của chúng, đó là chúng có thể khiến ta sống giả hình. Đức Bênêđictô XVI đã từng nhận định rằng trong các loại hình tình yêu như mẫu tử, phụ tử, huynh đệ, bằng hữu…thì có lẽ tình yêu nam nữ ( cách riêng trong đời sống phu phụ ) là tình yêu đúng nghĩa nhất. Quả thật, trong các mối tương quan nhân loại thì có lẽ người ta dễ sống trung thực với nhau hơn cả đó là trong mối tương quan phu phụ.

Đã là người hẳn ta thật khó mà cởi mở tấm lòng với tha nhân cách sạch sành sanh, nhưng ít ra là không bao giờ chủ ý sống giả hình, sống hai mặt vì chút lợi lộc hay chút hư danh nào đó. Đặc biệt chúng cần loại trừ những mưu mô xảo quyệt gây hại cho tha nhân và xã hội. Chúa Kitô đã từng cảnh báo: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.”( Lc 12,1-2 ).

Trung thực với Thiên Chúa: Chắc hẳn Ađam biết quá rõ rằng Thiên Chúa nhìn thấy mọi sự, biết hết mọi sự, thế mà sau khi phạm tội, ông vẫn tìm cách lánh mặt Thiên Chúa. Rồi đến khi Chúa hỏi tội thì Adam đã đổ lỗi cho bà Evà. Bà Evà lại đổ tội cho con rắn. ( x. St 3,8-13 ). Khi đã trót phạm tội, chúng ta thường bị cám dỗ ẩn mình hoặc tìm cách bào chửa. “Các ngươi vốn mù mà tự cho mình sáng nên tội các người vẫn còn.” ( Ga 9,41 ). Đọc Tin Mừng chúng ta nhận ra sự thật này: con đường đã mở ra để cho Chúa Giêsu đến yêu thương, tha thứ, thi ân cho những người biết khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình, dù họ là người tội lỗi hay là người ngoại bang, là người thu thuế hay là kẻ bán thân nuôi miệng. Chính Chúa Giêsu đã từng kể câu chuyện người thu thuế vào Đền thờ không dám ngẩng mặt lên, chỉ biết cúi đầu đấm ngực nói: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Và Người đã kết luận rằng người thu thuế này ra về và được nên công chính ( x. Lc 18,9-14 ).

Chúa đến thế gian là để yêu thương con người. Và con đường Chúa đi là con đường của sự thật. Chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ thần dữ, khỏi ách nô lệ tội lỗi và giúp chúng ta có khả năng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

Mọi đường lối Chúa đều là từ bi và ngay chính. “ Lạy Chúa, Chúa ở gần bên con, mệnh lệnh Chúa đều là chân lý.” ( Tv 119,151 ). “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” ( Ga 18,37 ). Cùng với tác giả Thánh Vịnh, ước gì chúng ta chân thành thân thưa: “Đường chân lý, này con đã chọn, quyết định của Ngài con khao khát đợi trông” ( Tv 119,30 ). Sự thật là nền tảng cho tình yêu nẩy nở. Sự thật cũng là con đường để tình yêu đi vào, ở lại và đơm bông kết trái. Trung thực với chính mình, trung thực với tha nhân và trung thực với Đấng Tạo Thành là một cách thế tuyệt vời dọn đường cho Chúa đến yêu thương chúng ta.

Một trong những cách thế để giúp sống trung thực với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa, tức là sống trong sự khiêm hạ, đó là hãy tích cực tập thói quen tốt của cha ông ta xưa là dọn mình chết lành mỗi tối trước khi đi ngủ. “Con chim sắp chết hót tiếng bi ai, người ta sắp chết nói lời lẽ phải.” Đúng hơn khi đối diện với “giờ Chúa đến” chắc chắn chúng ta không chỉ nói lời lẽ phải mà còn nói lời rất trung thực.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mục lục

Cuộc Trở Về Ngoạn Mục

Tôi sinh ra trong một gia đình có năm anh em, tôi là con thứ tư. Cha mẹ và anh chị em tôi đều là những người hiền lành tốt bụng và được mọi người chung quanh yêu mến, nhưng gia đình lại lọt vào một đứa con ngổ ngáo như tôi. Tôi là một đứa ngang bướng không ai bằng. Những gì muốn tôi phải làm cho bằng được, không ai có thể ngăn cản được. Tôi là tập hợp hết thảy những gì xấu của mọi người trong gia đình. Ngay từ khi còn đi học, tôi đã tụ tập bạn bè xấu tập tành ăn chơi.

Năm 16 tuổi, tôi bỏ học xin đi làm, gia đình ngăn cản không được đành chịu. Tôi theo bạn bè đến Bãi Vàng để kiếm tiền. Đây là nơi tụ họp đủ mọi thành phần tệ hại của xã hội. Nơi mà người ta trồng á phiện nhiều hơn rau xanh. Nơi mà người ta sống thác loạn, trộm cắp, xì ke, ma tuý, mãi dâm… đủ cả. Tôi bắt đầu lao vào cuộc ăn chơi trác táng. Tôi xâm tay, xâm mình, hút sách, ăn nhậu và lập băng đảng. Suốt năm năm trời, tôi phiêu bạt giang hồ từ Bãi Vàng đến Bãi Quặng. Với một thằng con trai ở cái tuổi “mười bẩy bẻ gẫy sừng trâu” này thì rừng thiêng nước độc cũng chẳng làm chùn được bước chân tôi. Nơi đây có tiếng là “nước sông Gâm tắm không câm cũng điếc”. Trong thời gian này tôi đã từng bị một trận sốt rét tưởng đã đi luôn từ ngày ấy, nhưng tôi đã vượt qua.

Đến năm 20 tuổi, gia đình khám phá ra tôi đang sử dụng ma tuý. Một sự thật kinh hoàng đối với gia đình tôi. Mọi người tìm cách ngăn cản và cấm đoán tôi. Bố tôi bắt tôi lập gia đình để có người kìm cặp tôi. Tính bố rất cương quyết và tôi phải vâng lời. Ngày ấy chưa một lần tôi cảm thấy yêu vợ mình. Tôi nghĩ có lẽ nhờ gia đình nề nếp và cái mã đẹp trai của mình đã khiến cho nàng chịu lấy tôi. Mười mấy năm ở với tôi, là mười mấy năm nàng phải sống trong nước mắt. Ở quê, lập gia đình rồi chỉ đi làm ruộng. Cuộc sống như thế đối với tôi quá đơn điệu, cho nên tôi quyết định bỏ đi vào Sài Gòn sinh sống. Gia đình tôi không đồng ý. Bố tôi cấm không cho đi, nhưng tôi đã nói là phải làm cho được. Tôi bắt đầu quậy phá, ăn chơi. Mọi người trong làng đều chán ghét và sợ tôi vì lối sống hư hỏng đó. Cho đến ngày tai hoạ xảy ra vì sự quậy phá của tôi khiến bố phải đích thân dẫn tôi trốn vào Sài Gòn. Bố để cho tôi sống ở nhà người anh kế, nhưng không ai có thể chấp nhận được một thằng quậy phá như tôi. Rồi tôi bỏ nhà theo bạn bè sống lang thang và tiếp tục dấn sâu vào con đường tội lỗi. Lúc này đối với tôi, Chúa ở mãi trên cao, Đức Mẹ chỉ có trong tiểu thuyết, chẳng dính dáng gì đến tôi cả. Chỉ tội gia đình cha mẹ, anh em và vợ tôi, mọi người chỉ biết cầu nguyện và cầu nguyện liên lỉ cho tôi.

Năm 1998, tôi quyết định bỏ ma tuý. Khi tôi tuyên bố như vậy, mọi người rất mừng. Lúc này tôi cắt cơn nghiện tương đối dễ, nhưng chỉ được một thời gian ngắn, tôi lại bị bạn bè lôi kéo sử dụng lại. Họ dùng đủ mọi chiêu bài để khích tướng, dụ dỗ, cung cấp đầy đủ thuốc cho tôi, và thế là tôi lại theo họ. Trong khi gia đình vẫn làm mọi cách giúp tôi thoát khỏi nó nhưng vô ích. Sau này tôi nghiệm ra được rằng, bản tính con người luôn muốn thoả mãn ý riêng mình nên dễ nghiêng chiều theo cái xấu. Chỉ khi nào có ơn Chúa, họ không còn nghĩ đến mình, chỉ mong làm điều đẹp ý Chúa, lúc đó họ mới vượt qua thử thách được. Tôi vẫn tiếp tục dấn sâu vào con đường tội lỗi. Gia đình đã khánh kiệt vì lo cho tôi. Mọi người đã chán nản vì sự hư hỏng của tôi.

Đến năm 2004, tôi bị bắt vào trại Lâm Hà, nơi mà “đường đi thì có, lối về thì không!” Nhưng chính nơi này cũng không giữ được chân tôi. Trong trại, nhờ khéo ăn nói, tôi lấy lòng được một số người. Họ bằng lòng giúp tôi trốn trại nhưng cả 3 lần đều không thoát. Mỗi lần bị bắt lại, tôi phải chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết. Trên người tôi lúc ấy không có một chỗ lành lặn, chân tay dập nát. Có lẽ giống những trận đòn quân dữ đã đánh Chúa Giêsu. Giá như hồi ấy tôi cảm nhận được tình yêu của Chúa, có lẽ tôi đã dâng những trận đòn ấy để hiệp thông với đau khổ của Chúa. Nhưng tiếc thay, tôi vẫn không sợ. Sau khi khỏi đau, tôi lại tìm cách trốn. Đến lần thứ tư tôi mới thoát. Vượt qua hàng rào cao 3 mét, rồi lẩn trốn vào rừng suốt hai ngày đêm đói khát, cuối cùng tôi cũng tìm được đường ra.

Tôi lần về Sài Gòn, đến nương nhờ nhà người chị dâu họ của tôi. Có lẽ qua lời cầu nguyện của gia đình và vợ tôi, Chúa đã đoái nhìn đến tôi, nên dùng người chị này để cảm hoá tôi. Đời sống của chị là mẫu gương cho tôi. Chính chị cũng đã trải qua nhiều đau khổ, vì vậy chị hiểu và yêu thương tôi. Một thằng xì ke quậy phá như tôi, thế mà chị sẵn sàng cưu mang, chăm sóc, khuyên nhủ. Đối với tôi, chị như một người mẹ, người chị và người bạn của tôi. Dần dần tôi đã có thể xoay sở tìm được một công việc ổn định. Tôi trở thành một chủ thầu xây dựng nhỏ, công việc làm cũng khá, nhưng tôi vẫn không bỏ được ma tuý. Chị rủ tôi vào Lêgiô, tôi cũng vâng lời để chị vui lòng. Một thằng nghiện ma tuý như tôi biết gì về Kinh Thánh mà tham gia? Chị lại khuyên tôi tham dự khoá học hỏi Kinh Thánh. Đã nhiều lần tôi tìm cớ thoái thác, nhưng rồi nể chị, tôi cũng nhận lời. Cứ đến 18 giờ chiều, chị gọi điện nhắc tôi đi học. Có điều kỳ lạ, dù đang nhậu với bạn bè, hay đang bận việc gì tôi cũng tự bỏ mà về đi học với chị, không cưỡng lại được. Thế rồi việc diệu kỳ Chúa làm cho tôi phải đến. Qua mấy buổi học Kinh Thánh, “Chúa đã lẻn vào đời tôi”. Tôi bắt đầu cảm thấy thích thú khi tìm hiểu Lời Chúa. Tôi tìm sách để đọc, càng đọc càng say mê, và tôi đã dần biết cách cầu nguyện với Chúa. Trước đó, tôi không hề nghĩ đến Chúa. Tôi sử dụng ma tuý thường xuyên. Không ngày nào mà tôi không hút, thiếu nó tôi không thể chịu đựng nổi. Lúc đầu còn ít, sau nhiều cữõ hơn, chỉ sau một giấc ngủ phải có nó. Thậm chí chỉ sau một chầu cà phê, tôi đã phải sử dụng nó, một ngày rất nhiều lần. Khi một người cai nghiện ma tuý, triệu chứng đầu tiên là ngáp, ngáp trẹo quai hàm, rồi sốt cao, sốt li bì, tiếp đến là đi tả, mệt lả người, không còn một chút sức lực nào. Cơn nghiện vật vã làm chân tay nhức nhối, cả người như bị giòi bọ rúc rỉa, cảm giác thật kinh khủng. Chính vì thế mà rất nhiều người không thể cai nghiện được khi họ không đủ ý chí và nghị lực. Ngay cả người thân khi chứng kiến cảnh ấy cũng không cầm lòng được. Thế mà bỗng dưng suốt một tuần lễ tôi không sử dụng một lần nào mà vẫn không có cảm giác khó chịu. Tôi có thể bỏ ma tuý dễ dàng mà chính tôi cũng không ngờ. Tôi chỉ đọc Kinh Thánh, tìm hiểu Lời Chúa và cầu nguyện. Chúa đã ban ơn cách riêng cho tôi thoát khỏi ách của ma tuý, từ bỏ nó mà chẳng cần đến một biện pháp nào cả. Tôi và chị Trinh đã quỳ cầu nguyện tạ ơn Chúa vì Ngài đã không bỏ rơi tôi. Chúa đã nhận lời cầu nguyện liên lỉ của gia đình tôi, vợ tôi và sự kiên nhẫn chịu đựng của chị Trinh, người đã cưu mang tôi. Tôi đã nhận ra Chúa sống động và hiện hữu ngay bên tôi. Tôi đã biết kết hiệp với Chúa từng giây phút trong cuộc sống. Khi đã có Chúa, tôi không còn phải sống trong tội lỗi, lo âu phiền muộn nữa.

Khi nhận ra Chúa, tôi bắt đầu biết quan tâm đến mọi người. Tôi quen với chị Thu Hương (mẹ của cậu bé Xương Thuỷ Tinh) và cùng chị tìm cách giúp đỡ người khác. Chúng tôi chung tay xây dựng một căn nhà tình thương cho một gia đình nghèo trong xóm. Khi làm việc, tôi leo lên dàn giáo, bỗng hụt chân rơi xuống. Ở độ cao hơn 4 mét, tôi rớt xuống như một chiếc lá, nằm ngay đơ. Mọi người nhốn nháo lo sợ tưởng rằng tôi đã chết. Một lần nữa Chúa lại cứu tôi. Khi rơi xuống tôi còn kịp kêu cầu Chúa giúp. Thời gian rơi xuống thật nhanh, nhưng Lòng Thương Xót của Chúa còn nhanh hơn. Ngài đã ra tay cứu giúp tôi, hơn cả lòng tôi và mọi người mong đợi. Khi rơi xuống, lưng tôi nện mạnh xuống nền đất đá lởm chởm, thế mà tôi bỗng ngồi dậy không hề hấn gì. Nhiều người lúc đó đã chứng kiến đều kinh ngạc. Người ta gọi xe chở tôi đi cấp cứu. Tôi khẳng định mình không việc gì, nhưng họ không tin. Tôi bằng lòng theo chị Hương lên bệnh viên cho họ khám. Đến nơi nghe kể lại sự việc, bác sĩ cho tôi đi chụp phim và làm một vài xét nghiệm. Kết quả một vết thâm đen ở cuối xương sống trong tấm phim là dấu hiệu duy nhất Chúa để lại cho tôi sau cú ngã từ độ cao hơn 4 mét. Tôi bình yên vô sự!

Một điều lạ nữa là tôi bị bệnh cột sống bẩm sinh. Ngay từ bé đã được chỉ định đi mổ. Bố tôi là y tá, ông biết rõ bệnh của tôi, nhưng nhà nghèo không tiền đi mổ đành phó mặc. Lớn lên, bệnh cột sống kéo liên hoàn khiến tôi chỉ ngồi lâu là đã bị tê cứng cả người. Bác sĩ chỉ định tôi không được làm việc nặng, không được xách quá 5kg. Nhưng bây giờ, tôi có thể vác bao xi măng 50kg mà chẳng hề hấn gì. Tôi không chỉ được Chúa chữa khỏi bệnh thân xác, nhưng điều quan trọng hơn cả là được ơn chữa lành tâm hồn. Bây giờ tôi đã có Chúa. Tôi nhất quyết sẽ bám chặt lấy Ngài.

Trước kia là chủ thầu xây dựng, tôi sẵn sàng thầu bất cứ công trình nào, miễn là có lời. Đối với tôi lúc đó tiền là trên hết. Khi đã có Chúa, tôi phải làm việc theo lương tâm, không thể bừa bãi và thiếu trách nhiệm được. Với mỗi công trình tôi luôn tâm niệm là làm cho Chúa, vì thế tôi phải làm thật chu đáo.

Khao khát của tôi bây giờ là được rao giảng và làm chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa. Và tôi đã được toại nguyện trong một buổi chiều thứ năm được mời lên làm chứng cho Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ tại nhà thờ Chí Hoà cùng với mẹ con Xương Thuỷ Tinh. Tôi cố gắng giúp đỡ những anh em nghiện ma tuý, những người đang phải sống trong tối tăm của sự dữ như tôi trước kia được nhận biết Chúa là Đấng giải thoát và chữa lành. Không gì hiệu nghiệm hơn là cầu nguyện với Lòng Thương Xót Chúa. Tôi tự nghĩ “một thằng như tôi, tội lỗi ngập đầu mà Chúa vẫn nhân từ ra tay cứu giúp, thì bất cứ ai chỉ cần trông cậy vào Chúa, Ngài sẽ không khước từ.” Có người nói với tôi rằng “Chúa đóng các cánh cửa lớn nhưng bao giờ cũng mở một cánh cửa sổ cho chúng ta!” Tôi không cho là như vậy. Chúa luôn mở rộng mọi cánh cửa và mời gọi mọi người đến lãnh nhận lòng thương xót của Chúa, nhưng tôi nhắm mắt làm ngơ, không chịu nhìn những cánh cửa mở rộng đó. Tôi đã nhắm mắt lại, hoặc “đắp tai nghảnh mặt làm ngơ” trước lời mời gọi yêu thương đó, và nghĩ rằng Chúa đã đóng cửa rồi.

Tôi đã nghiệm từ chính cuộc đời mình Lòng Thương Xót của Chúa vô bờ bến. Chúa đã mòn mỏi chờ đợi tôi suốt ba mươi mấy năm trời, mong tôi quay bước về nhà Chúa. Cuối cùng tôi đã nhận ra tình yêu thương của Chúa vô biên vô tận. Bây giờ mỗi lần cầu nguyện, tôi không thể cầm lòng khi nghĩ đến tình thương Chúa dành cho mình. Tôi ao ước được lấy nước mắt lau chân Chúa để rửa sạch tội lỗi của tôi. Trước kia, mỗi lần nhắc đến quá khứ, tôi cảm thấy xấu hổ và không bao giờ muốn nhớ lại. Nhưng bây giờ tôi sẵn sàng kể lại cho mọi người để làm chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa và để tôn vinh ngợi ca tình yêu của Ngài.

Một điều lạ lùng nữa, khi đi xét nghiệm ở viện Pasteur sau ngần ấy năm ăn chơi, cầm kết quả tờ xét nghiệm trên tay, tôi đã bật khóc vì kết quả âm tính với HIV. Tôi muốn nói về tình yêu thương Chúa dành cho tôi để mọi người tin, ai không tin thì bị thiệt thòi vì Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống. Khi sự bất lực của con người đến cùng tận thì quyền năng Chúa thể hiện. Khi con người bó tay thì Thiên Chúa ra tay. Chúa ra tay giúp đỡ qua lời bầu cử của Mẹ Maria. Bây giờ tôi còn được là đội quân dưới lá cờ của Mẹ. Trước kia tôi ngại nói về Chúa vì tôi không có gì để nói, ngày nay tôi mạnh dạn nói về Chúa vì tôi có Chúa để nói về Chúa, có Chúa để giới thiệu cho mọi người.

Quay về với Chúa tôi được hưởng hồng ân tuyệt vời. Tâm hồn tôi tràn đầy bình an, vợ tôi hạnh phúc vì bây giờ tôi đã biết yêu thương nàng để bù đắp bao năm phải sống trong nước mắt vì tôi. Tôi khao khát được dùng chính cuộc sống còn lại của mình để làm chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa. Tôi ao ước các bạn trẻ hãy quay trở về như tôi để được sống trong tình thương của Chúa và Mẹ Maria. Một cuộc trở về ngoạn mục.

(Ghi lại lời chứng của anh Vincentê Nguyễn Văn Nghị trong buổi cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa tại nhà thờ Chí Hòa- một buổi chiều thứ năm, tháng 10-2008)

Lãng Tử

Mục lục

 

Để chuẩn bị cho nền giáo dục Công giáo

Cách đây ít lâu, qua bài viết “Giáo Hội Công Giáo cần được mở trường học”, chúng tôi đã cố gắng nêu lên tính cấp bách trong việc Giáo Hội đứng ra điều hành và tổ chức giáo dục. Nhưng có những điều khác cũng cần phải quan tâm để khi bắt tay vào việc, cả nhà giáo dục lẫn học sinh và cả xã hội cũng không thất vọng.

I. VẤN ĐỀ CÓ THỂ GẶP.

Là những người sống ở Việt nam và hấp thụ hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít do nền giáo dục có nhiều khiếm khuyết từ mấy chục năm nay, chúng ta nhiều ít chịu tác động do nền giáo dục ấy, và nếu không “tỉnh thức và cầu nguyện”, chúng ta không tránh khỏi va vấp. Có nhiều vấn đề mà trường lớp Công giáo có thể gặp phải, nhưng chúng ta thử nhìn lướt qua vài điều như sau:

1. Nhân sự.

Chúng ta hiểu hơn “người thế gian” về vấn đề con người. Học thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo đã xác quyết con người là nhân vị cao cả. Do đó để phục vụ con người chúng ta cần nhắc đến yếu tố người phục vị đầu tiên. Mới đây, một nhóm anh em (trong đó có một giáo viên thuộc dòng Lasan), mượn danh nghĩa dòng Lasan để mở trung tâm ngoại ngữ “mini” có tính thử nghiệm. Lúc đầu thì họ dùng câu nói của thánh Lasan “giáo viên phải quan tâm đến từng học viên” để chọn những giáo viên giỏi, có kinh nghiệm. Nhưng họ bị vấp ngay tức khắc. Các trung tâm khác thường tuyển giáo viên bình thường để trả thù lao thấp bù lại chi phí. Trung tâm mới này cũng đang lo sẽ phải đi vào con đường ấy. Lại có một chuyện bất ngờ. Trung tâm này thuê phòng của một giáo xứ. Cha phó xứ này giảng trong thánh lễ không được “hấp dẫn”, do không soạn bài hay vì lý do này khác mà lại giảng sai nhiều điều. Thêm một ông cha phụ tá khác hơi “nhiều chuyện” và hách dịch. Một giáo viên của trung tâm này góp ý. Thế là hai cha phó ấy bắt trung tâm cho anh giáo viên ấy nghỉ dạy, dù hai cha phó này không có chuyên môn cũng chẳng có quyền gì trên trung tâm ấy. Ông cha xứ nghe đâu cũng dạng quốc doanh nên không dám nói gì. Và dĩ nhiên cũng vì thói quen “cúi đầu giữ chỗ” nên các anh từ đầu có thiện chí đã phải để cho thiện chí cúi đầu! Họ chấp nhận những điều ấy như chuyện thường tình, và những người có tâm huyết thấy rằng trung tâm này cũng chỉ là chỗ làm ăn. Ngay từ đầu, một trung tâm đang cố gắng mang danh Công giáo đã hành xử y như các trường mà ta thường lên tiếng phê phán, chỉ vì phải chiều theo một vài linh mục chưa ý thức sống sứ mạng mục tử của mình. Và do vậy, giáo viên cũng như học viên thấy nghi ngờ tính minh bạch của công việc giáo dục ở đó.

2. Học phí.

Chúng ta cho rằng giáo dục Công giáo thì phải ưu tiên cho người nghèo. Nhưng vấn đề tiền bạc không đơn giản là chuyện ra sao cũng được. Khi mở trường, người ta nghĩ rằng “giáo dục là ưu tiên”. Nhưng rồi chi phí phát sinh. Người làm giáo dục thấy “thêm chút học phí thì dân thành phố cũng chịu được”, thế là học phí lại thành chuyện muôn thuở của giáo dục Việt nam. Một nhóm anh em nọ mở lớp dạy ngoài giờ, qui tụ giáo viên có đạo để chung một chí hướng. Chỉ sau ít ngày thôi, mọi người nhận ra rằng học phí cũng chẳng thấp hơn các nhóm khác. Hoặc các nhà trẻ đang hoạt động cũng có vấn đề về học phí, về thứ tự ưu tiên… Dĩ nhiên là có nhiều lý do để biện minh: trang trải chi phí, để bù lại cho trường hợp có học viên không học tiếp tháng sau (lý do này xem ra có vẻ bi hài nhất), để thế này thế nọ vân vân. Tất cả những điều chúng ta làm đều có thể biện minh, nhưng có một điều không bao giờ xã hội chấp nhận: lấy lý do nhân đạo để làm kinh doanh. Khi chạm đến đồng tiền, nhiều giá trị phải thay đổi, và đó là điều mà người làm giáo dục Công giáo, kể cả các tu sĩ, phải đặc biệt cảnh tỉnh.

3. Phương pháp giáo dục.

Người ta vẫn than thở là chương trình học ở Việt nam nặng nề, học nhiều mà chẳng có bao nhiêu kiến thức, học thêm dạy thêm tràn lan… Nếu Giáo Hội Công giáo được mở trường lớp, chúng ta phải chấp nhận nhiều thực tế không đúng ý mình, ít là lúc ban đầu. Giáo viên ở đâu ra? Là các giáo viên đang dạy ở các trường nhà nước (rõ ràng cho đến bây giờ Giáo Hội Việt nam chưa có chương trình đào tạo riêng cho giáo viên Công giáo). Là các giáo viên đang dạy ở các trường, dù tốt đến mấy, nhiều ít họ cũng chịu ảnh hưởng trong phong cách làm việc, ý tưởng về mô hình giáo dục, quen với cách học sinh gian lận v.v… Ngay cả trong một số chủng viện, tu viện, việc quay cóp bài vở (mà chúng tôi gọi là gian xảo trong các bài làm), đã là tiếng báo động. Nhìn lại ảnh hưởng giáo dục trên xã hội, các nhà giáo có nhiều thao thức không thể ngồi yên. Nhưng họ sẽ làm được gì khi ngay bây giờ chưa có hướng đi nào rõ nét. Cha Lê Quang Uy DCCT vẫn nói đại ý phải làm ngay, phải sống tốt, sống khác, sống đẹp, không thể cứ theo lối sống thế gian. Nhưng ai sẽ thổi ý tưởng ấy bùng lên?

II. “HÃY ĐỨNG DẬY, TA ĐI”. (Mc. 14,42)

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chưa được mở trường lớp chính thức (trừ nhà trẻ và các lớp mẫu giáo), nhưng các vấn đề đặt ra lại quá cấp bách, và những chuyện xảy ra trong giáo dục Công giáo sẽ làm nhiều người thất vọng nếu người Công giáo và những vị có trách nhiệm không có chương trình hành động ngay từ bây giờ. Nhiều người trí thức Công giáo có thiện chí đã và đang lao vào phục vụ con người ở nhiều lãnh vực khác nhau: y tế, kinh tế, xã hội… nhưng dường như lối vào giáo dục còn bỏ ngỏ. Lời Chúa Giêsu chắc chắn đang vang lên trong những tâm hồn đang thao thức với nền giáo dục Công giáo: “Hãy đứng dậy, ta đi”. Còn ngồi lại bàn tính suy tư mà chưa đứng dậy thì sợ rằng sẽ muộn mất.

1. Đào tạo con người.

Một số linh mục, tu sĩ và giáo chức trẻ thì có đặc tính là “rất trẻ”, trẻ về cả tuổi nghề cũng như kinh nghiệm giáo dục. Một linh mục mới chịu chức đã vội nghĩ mình là “thầy dạy muôn dân”. Linh mục là thầy dạy theo gương Thầy Chí Thánh là Đức Kytô, luôn mang trong tâm hồn sự “hiền lành và khiêm nhượng”, chứ không phải là thầy kiểu trần thế, muốn gom dân lại mà dạy tất tần tật mọi thứ. Dĩ nhiên có những vị linh mục mà tài đức và kiến thức về mọi mặt đạo đời ai cũng kính nể, như cha Matthêu Vũ Khởi Phụng DCCT, nhưng không phải linh mục nào cũng thế. Một linh mục giảng “có 15% dân số thế giới tin Chúa”, con số sai rồi, nhưng ông lại bảo: “lấy số khác!”. Có một linh mục đi học Kinh Tế ở Pháp về, nghĩ không ra ai là một nhà kinh tế Công giáo cận đại, nhưng lại cho mình là nhà kinh tế đại tài. Và như vậy, những “nhà” ấy dĩ nhiên là cần được đào tạo lại về nghề nghiệp và về nhiều thứ khác, nhất là về khoa sư phạm để làm nhà giáo Công giáo đích thực. Cũng không ít giáo dân làm nghề giáo, nhưng cũng dạy qua loa, cũng ham thành tích, cũng giảng say sưa những điều vô bổ hay sai lạc, cũng dạy thêm và… chém! Chúng tôi rất khâm phục đường lối của Đức tân Giám mục phụ tá Sàigòn Phêrô Nguyễn văn Khảm. Ước chi những vị có tâm huyết với con người như Đức Cha, sẽ khởi xướng và tiếp tục việc đào tạo những nhà đào tạo.

2. Lòng hy sinh.

Đức Kytô, với tư cách một nhà giáo dục, đã không ngại bất cứ khó khăn gian khổ nào, để dạy cho dân những chân lý của muôn đời. Ngài không những dạy bảo mà còn cảm hoá, bằng chính lòng nhân từ và tình yêu của Ngài, biểu lộ qua lòng hy sinh chấp nhận tất cả để đến với những học trò nghèo, bình dân. Là môn đệ Đức Kytô, các nhà giáo dục Công giáo cũng phải đi con đường ấy. Hy sinh thì giờ, công sức đã vậy, mà sự hy sinh về đời sống vật chất cũng là cách thế hữu hiệu để giáo dục. Không thiếu những nhà giáo Công giáo vẫn hăm hở chờ nhận quà ngày 20/11, không thiếu những nhà giáo nhiệt thành giảng dạy nhưng vẫn đòi sự đền bồi cân xứng. Tất cả những điều ấy không sai xét về mặt nào đó, nhưng quả thật là những chướng ngại không nhỏ trên con đường giáo huấn.

3. Phải có một học thuyết.

Bất cứ một chương trình hành động nào cũng cần được hướng dẫn bởi một lý thuyết phù hợp, phù hợp với tôn chỉ, với mục tiêu, với con người và xã hội mà những người hành động nhắm tới. Người Công giáo được soi sáng và thúc đẩy bởi Tin Mừng, trong đó tất cả nguyên tắc được Đức Kytô, vị Thầy mẫu mực đã rọi soi đến từng ngóc ngách của cuộc đời đa dạng và phong phú này. Nhưng các học thuyết, Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo và các văn kiện của Toà Thánh về giáo dục là minh hoạ và chi tiết hoá lời giảng của Đức Kytô trong từng môi trường làm việc cụ thể. Các giáo chức Công giáo đang nhắm tới việc kiện toàn nền giáo dục không thể làm ngơ trước các học thuyết này. Và chúng con tha thiết mong các vị hữu trách trong Giáo Hội quan tâm đặc biệt để phong trào học và sống các học thuyết của Giáo Hội trở thành việc huấn luyện thường xuyên cho những người quan tâm đến công cuộc giáo dục trong Giáo Hội.

III. THAY LỜI KẾT

Xin được trích các điều khoản trong Bộ Giáo Luật để thay lời kết luận cho bài viết này, và theo giáo luật, chúng con kính mong các bậc hữu trách trong Giáo Hội quan tâm để việc giáo dục Công giáo có thể thực hiện và mang lại hiệu quả thiết thực.

Ðiều 803: (1) Trường học được gọi là công giáo khi được nhà chức trách có thẩm quyền trong Giáo Hội hay một công pháp nhân trong Giáo Hội điều khiển, hoặc được Giáo Quyền nhìn nhận như vậy qua một văn kiện.

(2) Việc huấn luyện và giáo dục trong một trường công giáo phải được căn cứ trên những nguyên tắc của giáo lý công giáo. Các giáo viên phải trổi vượt về giáo lý chân chính và đời sống thanh liêm.

Ðiều 804: (2) Bản Quyền sở tại phải lưu tâm để các giáo viên dạy tôn giáo trong các trường, kể cả các trường không công giáo, được trổi trang về đạo lý chân chính, về chứng tá đời sống Kitô Giáo và về khoa sư phạm.

Gioan Lê Quang Vinh

Vượt qua giới hạn

Hằng năm Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội vào mùa Vọng ngày 08. tháng 12. Đây không phải chỉ là một ngày lễ kính Đức Mẹ Maria như bao ngày lễ khác, nhưng còn là mừng kính nhắc nhớ đến một tín điều trong đời sống đức tin của Giáo Hội Công giáo

Đâu là ý nghĩa ngày lễ mừng này trong đời sống con người?

Mừng lễ kính đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội không chỉ nói lên đức tin về sự việc thánh thiêng lạ lùng Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Mẹ không bị vướng mắc vào vòng tội lỗi như mọi con người trần gian, nhưng còn muốn nhắc nhở con người đến vòng giới hạn cuộc sống của mình.

Sách sáng Thế ký thuật lại giới hạn mà Thiên Chúa đã vạch ra cho đời sống con người: “ Con đã ăn trái cây Ta đã cấm không cho ăn” ( St 3,11).

Cây cấm là giới hạn Thiên Chúa đã vạch ra. Cây này là cây hiểu biết. Nó tượng trưng cùng là cám dỗ cho sự ham muốn biết hết mọi sự.

Lý trí trong đời sống càng ngày càng chiếm chỗ quan trọng và là điều tốt cần thiết cho khảo cứu phát triển trong lãnh vực khoa học, y tế, tổ chức sản xuất kinh tế xã hội, lý luận văn chương. Nhưng sau cùng lại muốn nhìn thấu đáo biết hết những gì xảy ra trong đời sống, qua đó nẩy sinh lòng kiêu ngạo muốn sắp đặt cắt nghĩa tất cả mọi sự trong vũ trụ.

Ngược lại với lý trí, với suy luận cũng sai, cũng không đúng, nếu từ chối không dùng lý trí suy nghĩ về đời sống, về sự thánh thiêng, về Thiên Chúa, vì cho rằng mệt nhọc khô khan khó hiểu.

Tìm ra một con đường thăng bằng giữa hai bên lý trí và đức tin là điều không đơn giản chút nào. Đó là đời sống của con người sống trong giới hạn.

Đức Giáo hoàng đương kim Benedictô 16. luôn nói đến lý trí và đức tin. Lẽ dĩ nhiên lý trí không thể nhìn thấu đáo, cắt nghĩa hết mọi điều, nhất là vấn đề đức tin. Nhưng suy luận tìm hiểu của lý trí giúp cho điều tin trở nên trong sáng.Và đức tin , thuộc lãnh vực của trái tim tâm hồn cũng giúp lý trí đầu óc không bị vướng mắc vào vòng khô cứng chai đá hay trong vòng luẩn quẩn không sao tìm được lối ra. Và như thế cả hai hỗ tương giúp nhận ra giới hạn của nhau.

Gới hạn cũng có ý nghĩa riêng của nó. Giới hạn luôn có sẵn trong trật tự thiên nhiên, trong thời gian giữa ngày và đêm, trong những khả năng khác biệt nhau nơi mỗi con người, trong các nền văn hóa thời đại.

Cha mẹ nào cũng vui mừng hạnh phúc, khi thửa vườn hay khu công viên có hàng rào bao quanh, để con nhỏ không chạy đi lầm ra khỏi ngoài khu vườn, khu công viên có thể gây ra nguy hiểm về an toàn cho em bé.

Mỗi người cũng đều đi tìm giới hạn cho đời sống mình, trong đó mong ước được sống trong hài hòa bình an.

Khu vườn địa đàng mà chúng ta nói đến là nơi chốn chúng ta mong đợi có hài hòa bình an với chính mình và với Thiên Chúa.

Ngày xưa khu vườn địa đàng khởi đầu công trình tạo dựng vũ trụ cũng đã có khu vườn địa đàng trong đó, như Kinh Thánh thuật lại. Trong giới hạn ở khu vườn địa đàng đó Thiên Chúa để cho con người do Ngài tạo dựng nên, sống tìm thấy hạnh phúc của mình. Nhưng Ông bà nguyên tổ Adong Evà của chúng ta đã đánh mất nó. ( St 2.-3,24 )

Dẫu vậy lòng mong muốn khao khát về một khu vườn thiên đàng hài hòa bình an vẫn luôn thời sự nơi con người vào mọi thế hệ. Ngày nay những ca ngợi, quảng cáo nào là: Nơi giải trí thần tiên, vùng trời thiên đàng cho mua sắm, cho việc làm, cho tĩnh dưỡng…Nhưng thực tế những quảng cáo mời mọc dụ dỗ đó có hiệu qủa không đúng như thế, rất nhiều khi trái ngược gần như gây nhiều đau khổ thất vọng hơn cho thể xác lẫn tinh thần con người. Vì làm gì có một thứ hạnh phúc không có giới hạn bây giờ trên trần gian nữa.

Đó là hậu qủa của việc vượt qua giới hạn đời sống không chỉ cho Ông bà nguyên tổ Adong Evà ngày xưa đã sống vượt qua giới hạn khu vườn địa đàng ăn trái cấm, mà còn lan sang cả mọi thế hệ con người chúng ta.

Mừng kính lễ Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội nhắc nhớ đến giới hạn của con người. Đức Mẹ Maria tuy sống trong liên lụy của tội nguyên tổ, nhưng Đức Mẹ đã ưng thuận chấp nhận ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho trần gian.

Chính điều đó, Thiên Chúa đã dùng quyền năng tuyền chọn đưa Đức Mẹ Maria ra khỏi vòng vướng mắc của tội lỗi, vào sống trong giới hạn hài hòa bình an do Thiên Chúa hoạch định vạch ra.

Mầu lễ phục phụng vụ trắng ngày lễ mừng kính Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội trong mùa Vọng, mùa mà hằng ngày đều dùng lễ phục phụng vụ mầu tím ăn năn đền tội, đã nói lên ý nghĩa sâu đậm ngày lễ mừng vui này.

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Mục lục

 

GIẤC MƠ HAY HIỆN THỰC?

Một người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải dành cho người Công giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn, tôi đi theo hành lang bên phải dành cho người Công giáo.

Đi được một lúc, tôi thấy mình đứng trước một ngã rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau: Bên phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém. Và tôi lại đi bên phải.

Đến một ngã rẽ khác, tôi lại thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà đi.

Cuối cùng tôi gặp một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi. Nhưng tôi đang hân hoan rảo bước, thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức giấc.

Sau một phút tôi hoàn hồn và tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?”.

Câu hỏi trên đây có lẽ cũng có thể được nêu lên cho mỗi người chúng ta trước tiếng hô của Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Thường thì chúng ta cứ chọn bên phải mà đi, chứ mấy ai lại thích đi bên trái. Cái ảo tưởng về sự tốt lành của mình luôn luôn bám sát chúng ta như hình với bóng. Lòng tự cao tự đại thường mê hoặc chúng ta, làm cho chúng ta như chìm sâu mãi vào một giấc mơ hãi hùng.

“Anh em hãy tỉnh cơn mê, đêm đã tàn, ngày đang đến”. Lời ấy của thánh Phaolô muốn thôi thúc chúng ta thành khẩn nhìn lại giá trị đích thực của đời mình. Tôi có thực sự xứng đáng đứng bên phải trong ngày phán xét cuối cùng không? Hay đó chỉ là một giấc mơ hãi hùng?

Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Dọn đường cho Ngài đến thực hiện một cuộc giải phóng mới, không phải giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập hay khỏi nơi lưu đầy Babylon, mà là khỏi tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Vì vậy, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy sám hối. Ông đã dùng phép rửa như một dấu hiệu của lòng sám hối, từ bỏ tội lỗi để đón nhận Chúa Kitô, đồng thời như một dấu hiệu tiên báo một phép rửa hoàn hảo hơn -Phép rửa của Chúa Giêsu: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Ngài, Ngài sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.

Gioan không chỉ rao giảng sám hối mà còn sống tinh thần sám hối, không chỉ thức tỉnh dân chúng trước biến cố đang xảy đến mà còn lay tỉnh chính mình trước công việc mầu nhiệm của Thiên Chúa: cách ăn mặc của Gioan nói lên tâm tư và phong cách sám hối. Thực vậy, lối sống đơn giản và khổ chế của Gioan – mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng – chứng tỏ ông đã thoát khỏi những ràng buộc phiền toái của xã hội Do Thái và những bận tâm quá đáng về vật chất để quy hướng cuộc sống vào việc chào đón và rao giảng về Đấng Cứu Thế. Ông đã làm chứng về Đấng Cứu Thế và chờ đợi Ngài đến bằng một đời sống khổ hạnh và tỉnh thức.

Đời người là một Mùa Vọng dài hướng về ngày Chúa đến lại. Mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả, và toàn thể Giáo Hội có sứ mạng tiền hô. Người tín hữu hôm nay, khi nhắc đến mầu nhiệm Chúa đến, phải có tâm tư và thái độ sống thế nào để dọn đường cho những anh chị em chung quanh biết đón chờ Chúa? Chúng ta đã gia tăng cầu nguyện, hoán cải đời sống để dọn đường Chúa đến, để chuẩn bị cho Chúa tỏ mình ra chưa?

Lòng sám hối đích thực không nằm ở nơi những tình cảm tốt đẹp, những sáo ngữ hấp dẫn, những nghi thức rầm rộ bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể: sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng của tâm trí, lấp đầy hố thẳm nghèo đói Lời Chúa của tâm hồn.

Thánh Phêrô trong thư của ngài đã cho thấy lòng sám hối không phải là một thái độ nhất thời, mà là thái độ thường xuyên của người Kitô hữu trong suốt giai đoạn chờ Ngày của Chúa. Ngài nhắn nhủ: “Anh em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải cố gắng nên tinh tuyền, không chi đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa” (2Pr 3,14). Lời nhắn nhủ đó là những lời kêu gọi các tín hữu sám hối để tạo nên cho mình một thái độ tương xứng cần thiết.

Hiển nhiên là lời kêu gọi sám hối trong Phụng Vụ Chúa Nhật 2 Mùa Vọng này không thể chỉ được giới hạn trong việc xét mình ăn năn và xưng tội để có được một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho Chúa ngự, vào thánh lễ đêm Giáng Sinh. Sám hối là một thái độ sống của người Kitô hữu. Sám hối là một sự đổi mới, một sự đổi mới toàn diện: trong tư tưởng, trong sự chọn lựa, trong hành động. Sự đổi mới này không chỉ diễn ra một lần là đủ, mà là một đổi mới liên tục. Người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ con người cũ, lối sống theo lòng ích kỷ, tham lam, tàn bạo, không đếm xỉa đến quyền lợi của người khác, để sống theo con người mới với lòng yêu thương, với tình liên đới với người chung quanh, ở trong gia đình, trong trường lớp, trong cơ quan, xí nghiệp… Người Kitô hữu vẫn tin rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện không chỉ nơi thâm sâu thầm kín của từng con người mà còn ngang qua lịch sử trong xã hội con người.

Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa là một tiếng gọi mang đầy hy vọng và niềm vui: “Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì Người sắp đến rồi!”. Hãy thay đổi bộ mặt trái đất này cho loài người được sống ấm no hạnh phúc, để cho Trời Mới Đất Mới xuất hiện, trong đó công lý và hòa bình sẽ ngự trị và mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.

Trích trong tập sách  Niềm Vui Chia Sẻ

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

RƠM LỬA

 

Anh Sâm, nhờ có một số vốn kha khá ,sau 7 năm chung sống, anh và vợ, chị Xinh, quyết định vay thêm vốn, để mở cửa háng bán đồ trang sức. Anh Sâm có một người bạn ở Long An, tên là Lý, rất rành nghề vàng bạc. Anh liền đón bạn lên làm ăn chung với nhau. Hai năm đầu, công việc kinh doanh phát triển tốt đẹp.

 

Năm thứ ba, anh Sâm thường xuyên phải đi công tác xa nhà, mỗi đợt từ 1 đến 2 tuần. Và cuối năm đó, sau một chuyến đi xa về, anh như  người rớt từ lầu cao xuống đất, khi nhận được tờ ly hôn, do chính tay vợ viết. Chị Xinh thú nhận, đã mắc vào lưới tình vớí anh Lý và xin chồng  tạo điều kiện cho chị được chính thức trở thành vợ anh ta. Vì bây giờ, chị không thể sống thiếu anh Lý được nữa.

 

Trong câu chuyện cay đắng trên, anh Sâm cũng là người có trách nhiệm, vì anh đã vô tình đem “ Lửa” lại gần “Rơm”.

 

 

Chị Tân và chị Dung thân nhau, có lẽ, hơn cả chị em ruột. Khi đã có gia đình, cả hai vẫn thường xuyên qua lại giúp đỡ nhau.

 

Thế rồi, chị Tân được tin, mẹ ở dưới quê bị tai biến mạch máu não. Chị đề nghị với anh Công, chồng chị, để chị về quê chăm sóc mẹ ruột một thời gian.

 

Muốn đỡ gánh nặng cho chồng, chị Tân nhờ Dung, chạy qua chạy lại, chợ búa cơm nước cho hai cha con anh Công, chồng chị, vì cả hai ở cùng một chung cư.

 

Hai tháng sau, mẹ chị lành bệnh, đã đi lại được, chị xin phép mẹ trở lại thành phố. Bữa đó, vì trục trặc xe hư, nên hơn 4 giờ sáng hôm sau, chị mới về tới nhà. Vừa về tới, chị đã tối tăm mặt mũi, khi thấy chồng cùng cô bạn thân đang “ “ lúng túng như gà mắc tóc” gữa phòng ngủ.

 

Lại một câu chuyện đau xót về rơm và lửa.

 

Chị Ngân, một giáo viên, có cậu con trai học lớp 5. Là giáo viên, nhưng dậy con người khác thì được, nhưng dậy con mình lại rất khó, nên chị Ngân đã nhờ chị Tiên, một giáo viên Anh ngữ trẻ đẹp, dây kèm cho thằng bé, 3 buổi một tuần.

 

Anh Phú, chồng chị, mở tiệm may tại nhà. Chỉ sau một thời gian vắn, phụ huynh cùng gia sư trở thành thân quen.

 

Rồi một chiều, chị Ngân đột ngột về nhà. Chị ngạc nhiên thấy cửa rả đóng hết. Thằng bé con thì đang bấm điện tử ở hàng kế bên. Chị gọi nó lại hỏi : Tại sao bỏ học ra ngoài chơi. Nó phân bua với chị rất hồn nhiên : “Con được ba cho nghỉ học, ba còn cho tiền chơi xả láng trong chiều nay, để ba ở nhà may quần áo cho cô Tiên”.

 

Con đường lửa bén rơm, quả thật, rất khó lường.

 

Chị My làm nghề bán xôi dạo, anh Dũng chồng chị chạy xe ôm. Kinh tế gia đình tuy eo hẹp, nhưng cả hai rất hòa thuận, hạnh phúc.  Khi chị  sinh nở, anh Dũng cáng đáng mọi việc và luôn động viên chị giữ gìn sức khoẻ để nuôi con. Em gái chị, thấy hoàn cảnh của chị neo đơn, đến giúp chị giặt giũ, thu xếp việc nhà. Chồng chị cũng đối xử rất tử tế với em chị. Thấy vậy, chị rất cảm động và biết ơn chồng. Nhưng thật chẳng ngờ, chỉ 5 tháng  sau, bụng em gái chị cứ càng ngày càng phình ra. Lo lắng chẳng biết sự thể tự đâu. Cuôí cùng, chị gặng hỏi em gái. Đầu tiên nó im lặng, thút thít khóc. Mãi nó mới thú nhận : tác giả cái bầu là chính ông anh rể.

 

Lửa rơm, trong trường hợp trên, đã làm “tan đàn xẻn ghé”. Chỉ một phút yếu lòng đã làm tan vỡ cả hai mối tình, tình vợ chồng, tình chị em.

 

Viết tớí đây tôi nhớ lại Lời Chúa : “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi, thà cụt một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay, mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt” (Mt 9, 44).

 

Căn cứ vào Lời Chúa nêu trên anh chị hãy dứt khoát chặt đứt tất cả mọi đường dây, có thể đưa rơm lại gần lửa. Phòng cháy bao giờ cũng hơn là chữa cháy. Bởi vì cháy rôì, dù có chữa được, thi nhiều thứ cũng đã thành than.

Một người đàn ông, một người đàn bà gần gũi nhau và gần gũi nhau trong một thời gian dài, trong một không gian chỉ có hai người, thì cái chuyện thường tình khó mà ngăn cản được. Anh  chị chắc đủ tinh tế, để nhận ra những nguy cơ đó.

 

Cầu chúc anh chị sớm nhận ra nó và chặt đứt nó trước khi nó có thể gây hậu họa.

 

Lm. Hồng Nguyên

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

Đôi Điều Suy Nghĩ Nhân Chuyến Hành Hương Đất Thánh

Trong chuyến hành hương đến Đất Thánh dịp Năm Thánh 2000, tôi có rất nhiều cảm xúc và ấn tượng về những địa điểm ghi dấu các biến cố liên hệ đến cuộc đời của Chúa.

Trong chuyến hành hương lần này 8 năm sau, những cảm xúc và ấn tượng ấy, tuy vẫn còn, nhưng không mạnh mẽ và sâu xa như lần trước. Cũng phải thôi. Một nơi đã biết, đã từng đi qua, dường như trở thành quen thuộc, không làm cho người ta ngỡ ngàng, tất cũng mất đi vài phần hấp dẫn, cho dù chuyến đi này luôn được nhấn mạnh và nhắc nhở là chuyến đi hành hương thuần túy, không phải du lịch. Có lẽ tôi phải thú nhận như Lamartine sau một lần đến Thánh Địa, là: “Tôi đã du hành bằng cặp mắt, bằng ý nghĩ, bằng tâm trí, mà không du hành bằng tâm hồn và con tim”. Sách Gương Phúc viết rằng: “Chỉ có ít người thánh hóa mình bằng những cuộc hành hương thường xuyên” (I,23,4). Tôi chưa phải là người trong số ít đó. Mea culpa!

Dầu sao, có những yếu tố khác, thuộc tôn giáo đạo đức hẳn hoi, nhưng là của chính thống giáo và hồi giáo, đã gợi ra cho tôi đôi điều suy nghĩ.

Đất này là Đất Thánh, chan hòa sự thiêng thánh của 3 tôn giáo độc thần: kitô giáo, hồi giáo, do thái giáo. Kitô giáo và hồi giáo dễ nhận ra qua những giáo đường với ngọn tháp cao vút.

Kitô giáo phát xuất từ đây, đã ghi đậm dấu ấn của mình qua 2000 năm lịch sử. Do chia rẽ thành nhiều Giáo hội nên những địa điểm hành hương cũng do nhiều Giáo hội coi sóc: công giáo la tinh, chính thống giáo Hy lạp, chính thống giáo Nga, Copte, Arménie tông truyền, Tin lành..

Những nơi do công giáo coi sóc (qua các dòng tu, nhất là dòng Phan sinh) thì cảm thấy quen thuộc, nhưng những nơi do chính thống giáo coi sóc thì là cả một sự lạ: từ con người, lễ nghi đến cách xây dựng bài trí một nơi thánh. Trước, chỉ biết đến qua sách vở. Nay thì thấy tận mắt. Bách văn bất như nhất kiến. Trăm nghe không bằng một thấy.

Tôi đặc biệt để ý đến cách xây dựng và bài trí một nơi thánh, chẳng hạn Nhà thờ Mồ Thánh ở Giêrusalem hoặc Nhà thờ Giáng Sinh ở Belem.

Bước chân vào một nhà thờ chính thống giáo, có thể nhận ra ngay là tối nhiều hơn sáng, và sáng là nhờ ánh đèn điện, nhất là ánh sáng của những ngọn nến lung linh, hơn là ánh sáng tự nhiên. Đập vào mắt là những hình ảnh rậm rịt: các icônes, tranh khảm đan xen với các đồ phụng tự như bình hương (treo lơ lửng), đèn nến. Trần nhà, nền nhà, tường vách, bàn thờ dường như không còn chỗ trống. Trông hoa cả mắt. Hoành tráng, âm u, huyền bí khá tương phản với cách bài trí của công giáo la tinh. Có thể thấy dễ dàng sự tương phản này giữa hai chặng Đàng Thánh giá kế cận nhau trong Nhà thờ Mồ Thánh: chặng thứ 11 (công giáo la tinh) và chặng thứ 12 (chính thống giáo), hoặc giữa Thánh đường Giáng sinh (chính thống giáo) với Thánh đường Catarina (công giáo la tinh) sát bên.

Tôi chợt nghĩ: phải chăng khung cảnh và bầu khí đó diễn tả thực tại tôn giáo hơn? Tôn giáo mạc khải tự thân là huyền bí, mầu nhiệm, nên những cung cách và hình ảnh diễn tả cũng cần có những nét mầu nhiệm, huyền bí. Lấy thí dụ icône, được coi là phản ánh nguyên mẫu trong thế giới thiêng liêng, để đưa người chiêm ngắm đi vào trong thế giới ấy. Icône không rập theo nguyên hình của thế giới thụ tạo, nhất là theo khuynh hướng lý tưởng hóa vẻ đẹp như đa phần các ảnh đạo Tây phương, nhưng theo những quy tắc thần học chặt chẽ. Còn sự hoành tráng, phải chăng là muốn diễn tả khung cảnh mà Gioan đã thị kiến, được ghi lại trong sách Khải huyền (Kh 4 tt)?

Tôn giáo cũng cần được thể hiện bằng tình cảm. Tây phương nặng về lý trí, sáng sủa rạch ròi, nên cách thể hiện tôn giáo hơi khô. Chính thống giáo, cũng như các tôn giáo Đông phương nói chung, với những nét hoành tráng rậm rịt, có phải muốn nói lên tình cảm dào dạt của con người, phù hợp hơn với con người muốn dùng cả tình cảm để tiếp xúc với những gì là thiêng thánh?

Tại các nơi do chính thống giáo coi sóc, ai nấy còn có thể nhận ra điều này: muốn vào những nơi tôn nghiêm nhất, ghi dấu biến cố đặc biệt nhất, khách hành hương không thể đứng thẳng, nhưng phải cúi mình. Cửa vẫn còn chỗ để có thể mở rộng, nhưng người ta đã thu hẹp lại, cả chiều cao lẫn chiều rộng. Lấy lý do để ngựa và kỵ binh Ả rập khỏi đi vào, như ở Nhà thờ Giáng sinh, nếu có là cho ngày xưa thôi. Chứ ngày nay làm gì còn những chuyện tương tự, nên nếu muốn mở rộng, đâu có khó!

Chắc hẳn người thiết kế xây dựng đã cố tình làm như vậy. Cửa hẹp lại để ngăn cách hai chốn thiêng và tục. Cũng giống như bức màn ngăn và che nơi cực thánh trong Đền thờ. Người ta không thể từ nơi này qua nơi kia với một thái độ nhâng nháo. Phải biết mình sắp bước vào một thế giới khác, sắp đối diện với một Đấng khác. Chuyện xếp hàng nối đuôi nhau không chỉ vì đông người, mà còn giúp cho khách hành hương chuẩn bị tâm hồn…

Giáp mặt một Thiên Chúa như hiển hiện qua các dấu chỉ biểu thị, con người phải hạ mình xuống, phải khiêm tốn, như Mosê trụt giày trước Bụi gai cháy (Xh 3,5), như Phêrô sấp mặt xuống và kêu lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con..” (Lc 5,8). Cái thiêng thánh không chỉ fascinans, mà còn tremendum. Giacóp ngày xưa, chỉ gặp Chúa trong giấc mộng thôi, vậy mà ông đã đâm ra sợ cái chỗ mình đang ở, “terribilis est locus iste”,  đã cải tên cho nó thành Bethel, nhà của Thiên Chúa (St 28,17-19). Yếu tố tremendum này có lẽ cần được nhắc nhở khi mà nhiều người chúng ta, bước vào những nơi thiêng thánh, nếu không ý thức thì lắm khi đánh mất đi sự kính sợ cần thiết.*

Điều suy nghĩ thứ hai liên hệ đến hồi giáo.

Hồi giáo đã có mặt trên phần đất này từ thế kỷ VII, tất nhiên để lại những dấu ấn đậm nét. Đâu đâu cũng thấy những ngọn tháp (minaret) của đền thờ, ở đó có đặt những chiếc loa sắt, cứ đến giờ thì cả tiếng ngân nga lời cầu kinh. Chuyện này làm tôi nhớ đến những làng theo đạo Hòa hảo ở vùng Long Xuyên, Châu Đốc trước năm 1975.

Cầu nguyện là một trong 5 điều cơ bản buộc mọi tín hữu hồi giáo phải giữ, mỗi ngày 5 lần (rạng đông, trưa, chiều, lúc mặt trời lặn, đêm). Riêng trưa thứ sáu thì phải dự buổi cầu nguyện chung ở đền thờ. Chúng tôi đến đây vào tháng chay ramadan nên sự cầu nguyện càng được coi trọng.

Cầu nguyện thì tôn giáo nào cũng có. Nhưng cái kiểu hướng dẫn cầu nguyện oang oang qua loa, mỗi ngày 5 lần, mỗi lần hơn 10 phút, giữa chỗ thị tứ văn minh có nhiều người theo tôn giáo khác nhau, dễ làm cho khách thập phương khó chịu khi nghe lần đầu. Tôi đã có cái cảm giác ấy vào một buổi chiều ở Giêrusalem, lúc ngồi trong khách sạn.

Nhưng khi cảm giác khó chịu lúc đầu qua đi, ngẫm lại thì thấy: phải chăng đây là một trong những phương thế tốt nhất duy trì đức tin của người hồi giáo? Thời kitô giới (chrétienté) trước đây, tại các nhà thờ công giáo, ngoài tiếng chuông sớm tối còn có tiếng chuông trưa (Angelus). Thong thả như chuông chùa hay giục giã như chuông nhà thờ đều có tác dụng như mời như gọi con người hướng về cõi tâm linh, cõi hư không hay cõi siêu việt. Nay thì chuông trưa chuông tối tắt tiếng. Có phải mất tiếng chuông thì việc cầu nguyện vào lúc ấy cũng mất theo?

Bỏ cầu nguyện đi thì không còn tôn giáo. Nhưng cầu nguyện theo lối năm thì mười họa, ảnh hưởng tôn giáo trong tâm hồn và đời sống của một người tín hữu phỏng còn được bao lăm? Còn đàng này là cầu nguyện hằng ngày, vào những thời khắc nhất định, thực hành suốt đời, hẳn sẽ làm cho tâm hồn người hồi giáo gắn chặt với Đấng Allah, bởi lời cầu nguyện mỗi lần đại khái là một lời tuyên tín: “Allah là Đấng vô cùng cao cả… Không có Chúa nào khác ngoài Allah…”

Một việc cầu nguyện như trên không chỉ làm ở nhà hay trong đền thờ, mà ở bất cứ chỗ nào. Có thể trong một prayer room như tại phi trường Doha, thủ phủ Qatar. Có thể giữa chỗ đông người qua lại, như một lần bắt gặp tại phi trường Amman, thủ phủ Jordan. Một công nhân đang làm việc, đến giờ cầu nguyện, anh tìm một chỗ sát vách, trải tấm vải ra, trên đó có vẽ hình tượng trưng cho đền thờ, hướng về Mecca,  phủ phục cầu nguyện rất thành kính.

Tôi bỗng nhớ tới câu của Pascal: “Nếu bạn muốn có lòng tin, hãy quỳ xuống và cầu nguyện” (Si vous voulez avoir la foi, mettez-vous à genoux et priez). Tôi cũng ước mong cho các kitô hữu, trong đó có chính tôi, không ngại tỏ mình ra là tín hữu nếu không có gì phiền phức. Chuyện làm dấu thánh giá trước bữa ăn trong hàng quán dọc đường chẳng hạn, nhiều người đã không có can đảm thực hành như vẫn làm ở nhà. Thật khác xa với hành vi của người hồi giáo trên đây.

Những suy nghĩ lan man coi vậy mà cũng nhắc nhở cho tôi ít nhiều về một vài thái độ của một người kitô hữu. Âu đó cũng là một điều tốt, bù lại những thiếu sót trong một chuyến hành hương đích danh. Không phải vậy sao?

Lm Micae Trần Đình Quảng

Mục lục

 

Ghi chú:

Để chuẩn bị mừng Năm Thánh Kim Khánh Giáo phận (1960-2010), hưởng ứng lời kêu gọi của Đức cha Phêrô, 22 cha trong Giáo phận Đàlạt cùng với Đức cha làm cuộc hành hương đến Đất Thánh.

Danh sách đoàn gồm:

01.                       Đức cha  Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, GM Giáo Phận

02.                      cha Phaolô Lê Đức Huân, TĐD (Chính tòa)

03.                      cha Phêrô Trần Văn Hội (Chính tòa)

04.                      cha Micae Trần Đình Quảng (Chủng viện)

05.                      cha Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm (Chủng viện)

06.                      cha Giuse Trần Ngọc Liên (Chủng viện)

07.                      cha Gioan Nguyễn Anh Tuấn (Tòa Giám mục)

08.                      cha Giuse Trần Minh Tiến (Thiện Lâm)

09.                      cha Phêrô Lê Văn Khánh (Lang Biang)

10.                      cha Giuse Trần Văn Chiến (Cầu Đất)

11.                      cha Matthêu Đinh Viết Hoàng (Thanh Bình)

12.                      cha Giuse Nguyễn Văn Khấn (Nam Ban)

13.                      cha Giuse Nguyễn Viết Liêm (Thạnh Mỹ)

14.                      cha Phêrô Lê Anh Tài (Tân Thanh)

15.                      cha Gioan Đỗ Minh Chúc (Thánh Mẫu, Bảo Lộc)

16.                      cha Giuse Tạ Đức Tuấn, sdb (Học viện Đàlạt)

17.                      cha Giuse Nguyễn Đình Phúc, sdb (K’Long)

18.                      cha Giuse Nguyễn Văn Linh, cm (Vinh Sơn)

19.                      cha Phaolô Phạm Văn Trị, cm (Mai Anh)

20.                      cha Giuse Phan Thái Hòa, cm (Bạch Đằng)

21.                      cha Giuse Phạm Văn Bính, ICM (Tập viện Đàlạt)

22.                      cha Giuse Nguyễn Mạnh Khoa, ICM (Tập viện Đàlạt)

23.                      cha Gioan Nguyễn Xuân Thu, DCCT (Tùng Lâm)

Ngoài ra còn có cha Phêrô Nguyễn Chí Thiết (ở Pháp, đang công tác ở Việt Nam) được Đức cha mời làm hướng dẫn viên tinh thần, và cha Giuse Phạm Văn Chỉnh, thuộc Giáo phận Cần Thơ, xin đi chung với đoàn. Hướng dẫn đoàn là anh Hoàng Sơn, thuộc công ty du lịch Carnival.

*

Cuộc hành hương kéo dài từ 08 đến 15 tháng 9 năm 2008.

- Thứ hai, ngày 8/9: bay đến Doha (Qatar). Nghỉ đêm.

- Thứ ba, ngày 9/9: bay đến Amman (Jordan). Đi xe qua biên giới Israel đến Nadarét. Nghỉ đêm.

- Thứ tư, ngày 10/9. Sáng: Nadarét (Nhà thờ thánh Gabriel và Giếng Đức Mẹ, Nhà thờ Hội đường, Nhà thờ Truyền Tin, Nhà thờ Thánh Giuse), Cana. Chiều: Núi Tabor, Naim

- Thứ năm, ngày 11/9. Sáng: Nhà thờ Bát Phúc, Nhà thờ Tối Thượng Quyền, Capharnaum. Đi thuyền trên Biển hồ Galilê, Tabgha. Chiều: Yardenit, Giêricô, Giêrusalem.

- Thứ sáu, 12/9. Sáng: Belem (Cánh đồng chiên, Nhà thờ Giáng Sinh, Nhà thờ Catarina…Chiều: Ein Karem (Nhà thờ Thăm Viếng, Nhà thờ Gioan Tẩy Giả), Núi Cây Dầu (Đền thánh Thăng Thiên, Nhà thờ Kinh Lạy Cha, Nhà nguyện Chúa Khóc, Vườn Cây Dầu, Nhà thờ Các Dân Tộc, Nhà thờ Mồ Đức Trinh Nữ Maria).

- Thứ bẩy, 13/9. Sáng: Cổ thành Giêrusalem (Nơi sinh Đức Mẹ với Nhà thờ thánh Anna và hồ Bethesda, Via Dolorosa, Nhà thờ Mồ Thánh), Núi Sion (Nhà thờ Đức Mẹ An Giấc, Nhà Tiệc Ly, Mồ Đavít). Chiều: Cổ thành Giêrusalem: Bức tường phía Tây.

- Chúa nhật, 14/9. Sáng: Qumran, Biển Chết, về lại Amman. Tối: bay đến Doha. Nghỉ đêm.

- Thứ hai, 15/9: bay về Việt Nam. Đến Saigòn lúc 7g20 tối.

Nhờ ơn Chúa, chuyến hành hương nói chung tốt đẹp.

Đức cha muốn anh em trong đoàn ghi lại những gì mà mỗi người cảm nhận qua chuyến hành hương.